Tuyển chọn bài soạn phân tích bài thơ “Bác ơi! (Tố Hữu)” lớp 12 hay, chi tiết nhất

Tuyển chọn bài soạn phân tích bài thơ “Bác ơi! (Tố Hữu)” lớp 12 hay, chi tiết nhất giàu mạch cảm xúc cùng với đó là tiếng khóc đau xót, bài thơ đã khắc họa hình tượng Bác Hồ chân thật nhất 

Bài soạn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 1

“Bác ơi” là bài thơ được tác giả Tố Hữu viết sau ba ngày Bác Hồ ra đi. Cảm xúc chung toàn bài thơ là nỗi niềm tiếc thương đối với vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam, trân trọng, ngợi ca tình yêu nước thương dân của Người.

Bài thơ được mở đầu bằng tiếng khóc nấc nghẹn của nhà thơ, đó cũng là tiếng khóc thương của hàng triệu con người Việt Nam trước sự ra đi của người Cha già của dân tộc:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…”

Nhà thơ Tố Hữu đã điệp từ “tuôn” như muốn khẳng định sự đau xót khôn xiết của con người và cả thiên nhiên khi Bác rời xa. Nỗi đau xót ấy bao trùm lấy cả lòng người và trời đất.

Tố Hữu là một nhà thơ Cách mạng nhiệt huyết, vậy nên, ông rất gần gũi với Bác Hồ, rất thương mến người Cha già kính yêu của dân tộc. Thế nhưng, khi người Cha già ấy ra đi, Tố Hữu lại không được gần bên, nên khi vừa hay tin, ông đã “chạy về thăm Bác”.

Những cảnh vật xưa cũng vẫn nguyên đây, căn nhà sàn Bác đã ở giờ đây chẳng còn tiếng nói của Người mà trở nên trống vắng, lạnh lẽo đến vô cùng:

“Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác, đứng nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!”

Những đồ vật bên trong đó giờ đây nằm bất động, chuông không reo, phòng tắt đèn, rèm cửa buông, những gốc cau, gốc dừa ướt lạnh sương, … tất cả đều vắng hơi ấm của Người. Đối với Tố Hữu, điều ấy thật đau đớn, thật tê tái đến nhường nào! Nhà thơ dạo bước quanh trên “lối sỏi quen” nhưng tất cả giờ đây chỉ còn là những kỉ niệm, bởi Bác Hồ đã rời xa thế giới này, thật đau đớn, thật xót xa biết bao!

Và dường như nhà thơ vẫn còn chưa tin vào sự thật ấy, ông bật lên tiếng khóc nghẹn ngào, giật mình trong thảng thốt, gọi tên Bác:

“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời”

Mùa thu ấy thiên nhiên đều đẹp, con người đều mừng vui bởi khi đó, cả tiền tuyến còn đang trong ác liệt, cả miền Nam đang trên đà chiến thắng. Tất cả mọi người đều mơ đến ngày thống nhất Nam Bắc, Bác Hồ sẽ vào thăm miền Nam, cả miền Nam sẽ được thấy Người vẫy tay cười trong nắng mới:

“Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười”

Căn nhà Bác ở và làm việc vẫn còn nguyên đây, những cây bưởi đã ra trái ngọt, hoa nhài đã nở thơm ngát nhưng thật trống trải “còn đâu bóng Bác đi sớm hôm” nữa. Nhịp điệu thơ ở đây mang đầy sự nghẹn ngào, những câu hỏi tu từ liên tiếp được đặt ra như để biểu thị cho nỗi đau vô bờ của nhà thơ:

“Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!”

Bốn khổ thơ là những niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ cũng như của toàn dân Việt Nam trước sự ra đi của Người. Nỗi đau xót ấy không chỉ con người mới thấu mà thiên nhiên, trời đất đều cảm nhận được! Không gian nghệ thuật trong bốn khổ thơ được Tố Hữu mở rộng dần từ căn nhà của Bác tới thiên nhiên, miền Nam, đất trời, tất cả đang thấm thía nỗi đau xót khi Bác ra đi.

Sáu khổ thơ tiếp theo, Tố Hữu dựng lại hình tượng vị Cha già của dân tộc với tấm lòng yêu thương bao la và những phẩm chất cao đẹp.

Cả cuộc đời của Người sống với lí tưởng cao đẹp là giành lại độc lập cho đất nước, giành lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người đã dâng hiến cả đời mình cho sự nghiệp cứu nước, nhưng tới khi mất đi, sự nghiệp ấy vẫn chưa hoàn thành, tấm lòng của Người vẫn còn “nặng thương đời” mà chưa được “thảnh thơi”:

” Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời”

Câu thơ cảm thán chứa đựng sự cảm phục đối với Bác cũng như nỗi xót xa cho sự vất vả của Người. Bác luôn yêu thương mọi người, yêu non sông đất nước, mọi kiếp lầm than của dân tộc, thế nên Tố Hữu đã dùng ở đây một hình ảnh ẩn dụ thật tinh tế để miêu tả điều đó:

“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người”

Hai câu thơ chứa đựng ca ngợi tình yêu nước sâu sắc và lòng thương người mênh mông Bác dành cho dân tộc Việt Nam, cho “mọi kiếp người” lầm than trên thế giới. Hai câu thơ này có lẽ là những câu thơ đặc sắc nhất, hay nhất cả bài thơ!

Khi Bác ra đi, miền Nam còn đang khói lửa, Bác ra đi không buồn mà chỉ đau xót và trăn trở cho đất nước, cho năm châu còn chưa được hoà bình. Nhà thơ đã dùng biện pháp liệt kê để kể về những nỗi “đau” mà Bác còn mang nặng và khẳng định tình yêu bao la của Bác với mọi người, mọi nhà, cho vạn vật khắp thế giới này:

“Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau…”

Lòng Bác cũng như tấm lòng của người mẹ hiền, thương đàn con thơ dại. Bác đã sống hiên ngang, vĩ đại “như trời đất của ta”, yêu thương, chăm lo cho “ngọn lúa, cành hoa”, cho “mỗi đời nô lệ”, cho trẻ em và người già.

Bác cũng dành một tình cảm sâu nặng cho các chiến sĩ nơi đầu trận tuyến. Với Bác, miền Nam là ruột thịt, luôn trong tim Bác. Bác dõi theo từng “bước trên tiền tuyền”, vui mừng khi tin thắng trận kéo về.

“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa”

Những câu thơ ở đây đều chứa chan xúc cảm, khẳng định sự yêu thương chân thành, sự mong mỏi đất nước hoàn toàn độc lập của Người. Tố Hữu khóc thương Người, nhưng cũng từ đó mà làm sống dậy tâm hồn của Người, tình yêu của Người – rộng lớn, mênh mông.

Khổ thơ tiếp theo, chúng ta thấy một loạt những từ “vui” được trải đều khắp khổ thơ:

“Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hoà bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình”

Nhà thơ đã làm sống dậy tâm hồn của Bác, sống dậy những mơ ước của Người. Người “nâng niu” tất cả nhưng lại “quên” đi bản thân mình. Bởi lẽ sống của Bác là lẽ sống của dân tộc, Bác đã hy sinh, đã quên mình vì cả dân tộc Việt Nam. Tâm hồn ấy, lí tưởng ấy thật cao cả, thật đáng tự hào!

Bác sống một đời giản dị, thanh bạch, khiêm nhường và hy sinh. Đến lúc Người ra đi, Người cũng chỉ có vài bộ quần áo đơn sơ đã sờn, vài đôi dép cao su mộc mạc, “chẳng vàng son”, như một bức “tượng đồng phơi lối mòn” và chỉ để lại cho chúng ta một tình yêu thương vô bờ bến, một tâm hồn trải “muôn trượng” thế gian:

“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”.

Đức tính giản dị là một trong muôn vàn những đức tính tốt đẹp mà Người đã để lại cho chúng ta noi theo. Và Tố Hữu đã dựng lên hình tượng Người giản dị như thế, khiêm nhường như thế nhưng cũng thật vĩ đại, thật cao đẹp biết bao! Tình yêu thương, sự hy sinh của Người cho dân tộc sẽ mãi mãi được nhắc đến với sự trân trọng, kính yêu vô bờ!

Ba khổ cuối cùng của bài thơ, nhà thơ đặt những cảm xúc của mọi con người vào đó để bày tỏ niềm tiếc thương trước sự ra đi của Người.

Người đã ra đi mãi mãi, để lại cho chúng con sự tiếc nhớ vô cùng. Thế nhưng, lời Bác dặn dò vẫn còn đó, phải nén lại đau thương để tập trung vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, để thực hiện di chúc của Người trước lúc đi xa:

“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước…”
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều”

Bác ra đi rồi, sự thành kính của chúng con tiễn đưa Người tới thế giới của những người vĩ đại. Nhưng lý tưởng Người để lại, những bài học Người đã dạy, những căn dặn Người đã nêu sẽ là “ánh hào quang đỏ” dẫn dắt chúng con “cùng nhau tiến lên”, soi sáng cho con đường của cả dân tộc.

Người sẽ mãi mãi là tấm gương hy sinh hết mình cho Tổ quốc mà chúng con nguyện noi theo. Bác đã hòa mình vào sông núi, dõi theo bước chân của chúng ta, để non sông Việt Nam sẽ vĩnh viễn vững bền:

“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”.

Nhịp thơ của những khổ thơ cuối dồn dập, vẫn là niềm tiếc thương nhưng đã nguôi ngoai phần nào, và trong đó là sự quyết tâm, khẳng định chắc chắn. Những dòng thơ cuối như kết tinh một chân lý: Yêu Bác, lòng ta càng “trong sáng hơn”, mạnh mẽ, vững vàng hơn. Ánh sáng của Người soi tỏ con người chúng ta, thanh lọc tâm hồn chúng ta, nâng tầm sức mạnh.

Cả bài thơ Bác ơi là niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ Tố Hữu với sự ra đi của người Cha già mà cả dân tộc kính yêu. Cuộc đời Người là sự hy sinh, cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, tấm lòng Người trải rộng yêu thương hết thảy mọi người. Bác ra đi, nhưng những người còn ở lại sẽ tiếp bước con đường của Người, hoàn thành di chúc và ước muốn của Người lúc còn sinh thành, đó là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Bài thơ là niềm xúc động dâng trào trong lòng Tố Hữu khi về thăm Người khi Người đã rời xa cùng những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời Bác. Bài thơ vừa mang nỗi xúc động vừa chứa chan tính chất hào hùng như chất liệu sử thi. “Bác ơi” xứng đáng trở thành một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tố Hữu.

Bài soạn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 2

“Bác ơi!” được Tố Hữu viết vào ngày 6-9-1969, bốn ngày sau khi vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc qua đời. “Bác ơi!”được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, gồm 13 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ.

Bài “Bác ơi!” là tiếng khóc tiễn biệt, mang ý nghĩa như một bài điếu văn rất cảm động, vừa ca ngợi lòng yêu nước thương dân bao la của Bác Hồ, vừa biểu lộ lòng tiếc thương, ghi nhớ công ơn to lớn của lãnh tụ. Mở đầu bài thơ là tiếng khóc. Bác Hồ qua đời để lại nỗi đau thương trong lòng hàng triệu đồng bào ta và bạn bè gần xa. Nỗi đau thương trùm cả cõi đời và cả vũ trụ bao la, mênh mông:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…

Câu thơ thứ hai, chữ “tuôn” được điệp lại hai lần đã cực tả nỗi mất mát, đau thương của dân tộc thật vô hạn. Đọc hồi kí của Tố Hữu, ta biết lúc Bác Hồ mất, nhà thơ còn đi công tác xa. Nghe tin Bác mất, tác giả vội “chạy về”. Đó là một buổi chiều đau đớn, bàng hoàng. Hai chữ “ướt lạnh” diễn tả nỗi đau đớn tái tê ấy:

Chiều nay con chạy về thăm Bác

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!

Bác ra đi, ngôi nhà sàn của Bác trở nên vắng lặng, hiu hắt buồn. Chuông chẳng còn reo nữa. Ánh đèn “tắt”, “rèm buông”, phòng của Bác ở và làm việc thì đã “lặng”. Sự sống như ngừng lại trong đau thương:

Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!

Bác ra đi quá bất ngờ, đột ngột. Cả miền Nam, cả tiền tuyến lớn anh hùng đang trên đà chiến thắng. “Rước Bác vào thăm”… là ước mơ đẹp của đồng bào, chiến sĩ. Nhưng giờ đây còn đâu nữa khi Bác đã đi xa:

Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội

Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!

Ngày hội chiến thắng, ngày hội thống nhất non sông… thế là vắng bóng Bác. Bác ra đi, cỏ cây hoa lá, thiên nhiên tạo vật đều đau đớn tiếc thương. Vườn rau, gốc dừa, trái bưởi, hoa nhài, ao cá… những vật thân quen ấy của Bác được nhân hoá gợi ra bao đau đớn, cô đơn, buồn tủi, ngậm ngùi. Lấy ai để san sẻ nỗi đau buồn thương tiếc? Tố Hữu có một lối nói biểu cảm rất sâu sắc. Ông đứng lặng, tự hỏi lòng mình rồi hỏi cỏ cây hoa lá:

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm

Quanh mặt hồ in mây bay…

Bốn khổ thơ đầu, Tố Hữu đã mở ra một không gian nghệ thuật từ đất trời, cõi đời, niềm Nam,… đến vườn rau, ao cá, gốc dừa, ngôi nhà sàn,… đồng hiện một tâm trạng nghệ thuật, đó là nỗi đau đớn, tiếc thương đã và đang thấm sâu vào lòng người, lòng dân tộc. Đó là ngày Bác đi xa, ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày Quốc tang. Sự kết hợp các câu cảm thán, câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ như tiếng nấc cất lên, nghẹn ngào, biểu cảm:

Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm…

Sáu khổ thơ tiếp theo trong phần hai bài thơ nói lên tình thương bao la và phẩm chất cao đẹp của Bác. Cách cấu trúc bài thơ giống như bài văn tế khi nhắc tới công đức của con người vừa qua đời. Bằng hình ảnh hoán dụ, Tố Hữu ca ngợi lòng yêu nước thương dân, tình nhân ái bao la của Hồ Chí Minh. Đây là hai câu thơ trong bốn câu thơ hay nhất trong bài thơ “Bác ơi!”:

Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông, mọi kiếp người.

Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả nhắc lại tấm lòng nhân ái bao la, mênh mông, của Bác. Đó là nỗi đau và nỗi lo của Bác. Lòng Bác sâu nặng như lòng mẹ: “Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ – Cho hôm nay và cho mai sau”. Đó là lòng Bác: Bác sống, Bác yêu, Bác cho, Bác để, Bác tặng:

Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già.

Đó là Bác nhớ, Bác nghe, Bác lắng… Đó là tình cảm của lãnh tụ dành cho chiến sĩ và đồng bào nơi Thành đồng Tổ quốc:

Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha

Bác nghe từng bước trên tiền tuyến

Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa.

Bác đã từng nói: “Miền Nam luôn trong tim tôi”, Thơ chúc Tết năm 1969, Bác đã viết: “Năm qua thắng lợi vẻ vang – Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to… “, Bác là niềm vui thắng trận. Bác là chỗ dựa tinh thần để tiền tuyến xốc tới “Đánh Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!”, Tố Hữu vừa khóc thương Bác, vừa làm sống lại tâm hồn Bác. Điệp ngữ “vui” và các động từ: “nâng niu, quên” đã nói lên một cách sâu sắc tâm hồn Hồ Chí Minh: lạc quan yêu đời, giàu đức hi sinh. Hình ảnh so sánh đầy chất thơ:

Bác vui như ánh buổi minh

Vui mỗi mầm non, trái chín cành

Vui tiếng ca chung hòa bốn biển

Nâng niu tất cả, chỉ quên mình.

Bác sống giản dị, thanh bạch. Chiếc va li nhỏ, vài ba bộ quần áo đơn sơ, đôi dép cao su…, “chẳng vàng son”,Nhiều người thường nhắc đến hai câu thơ tuyệt bút sau đây để ca ngợi đức tính giản dị của Bác Hồ:

Mong manh áo vải, hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

Tư tưởng lớn, ý thơ đẹp và hay, nghệ thuật tưởng phản tài ba, Tố Hữu đã để lại câu thơ trong trí nhớ nhiều người. Có thể nói, đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc cảm động tâm hồn, phong cách, đạo đức và lối sống Hồ Chí Minh. Ba khố thơ trong phần cuối là tiếng khóc, là sự ghi nhớ, là lòng biết ơn, là lời ước nguyện.

Thương Bác, nhớ Bác càng thấy lòng mình bơ vơ, đau đớn: “ôi Bác xế chiều – Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu! Bác đã đi xa, bước vào “thế giới Người Hiền”. Sự nghiệp cách mạng, đạo đức cách mạng của Bác mãi mãi là “Ánh hào quang thêm”, là tài sản tinh thần vô giá có tác dụng động viên, cổ vũ đồng bào, chiến sĩ “cùng nhau tiến lên” với niềm tin sắt đá:

“Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày này”. (Di chúc)

Nhớ mãi công ơn của Bác, nhân dân ta nguyện ghi sâu trong lòng lời Bác dặn, quyết tâm vượt lên hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Bác để lại. Bài thơ khép lại bằng một hình so sánh mang tượng hình sông núi kì vĩ. Tố Hữu khóc Bác bằng một lời thề chiến đấu:

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.

Tố Hữu là nhà thơ viết về Bác Hồ nhiều nhất, sâu sắc nhất, hay nhất. Hình ảnh Bác Hồ: “Người là Cha, là Bác, là Anh – Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ” đã in đậm trong nhiều trang thơ của Tố Hữu. “Bác ơi!” là một trong những bài thơ hay nhất viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 3

Chiều ngày 2/9/1969, tin Bác Hồ mất đến với Tố Hữu khi ông đang điều trị ở bệnh viện. Ông vội trở về, tìm đến ngôi nhà sàn thân quen. Trời mưa tầm tã, xung quanh vắng lặng. Lòng trĩu buồn, đêm hôm ấy ông ngồi viết bài thơ này. Xuân Diệu cho đây là bài “điếu văn bi hùng”. Bài thơ thể hiện nỗi đau thương tột độ và sự cảm nhận bao quát về cuộc đời, phẩm chất và đức độ của lãnh tụ.

Hai câu thơ đầu, nhà thơ nhắc đến không khí đau buồn bao trùm đất nước, tạo ra chất bi hùng của sự kiện Bác mất. Cả nước khóc thương Người:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa…

Hình ảnh người con vắng Bác lúc đầu mang tâm trạng trống vắng bơ vơ dáng dấp, bước chân thẫn thờ trông thật tội nghiệp:

Con lại lần theo lối sỏi quen

Đến bên thang gác đứng nhìn lên

Không gian nơi Bác ở cũng nhuốm màu tang thương li biệt:

Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa?

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!

Hoa lá cỏ cây vắng hơi Người cũng ngơ ngơ ngác ngác:

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!

Tác giả sử dụng bút pháp quen thuộc với thơ ca truyền thống, gởi tâm trạng vào cảnh vật, từ ngoại cảnh mà thấy bức tranh tâm trạng, tâm hồn – sự trống vắng hụt hẫng, nỗi thương lớn lao khi mất Bác. Ngôn ngữ đối thoại nội tâm làm cho chân dung nhân vật trữ tình hiện lên chân thực, tự nhiên. Dòng thơ tuôn chảy một cảm xúc dạt dào. Cảm xúc đau buồn tạm nguôi ngoai, nhà thơ nhắc đến chân dung lãnh tụ, những tâm sự vui buồn của Người khi còn sống:

Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau

Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu.

…Bác vui như ánh buổi bình minh

Vui nỗi mầm non trái chín cành (…)

Từ đó mà ý thơ chiêm nghiệm tổng quát:

Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông trọn kiếp người.

…Nâng niu tất cả chỉ quên mình.

Ở lãnh tụ có bao phẩm chất cao đẹp nhưng tình thương và đức hi sinh của Người đã làm nên sự vĩ đại và bất tử. Tình nhân ái của Người vừa cụ thể thiết thực: sữa để em thơ, lụa tặng già vừa bao quát cả nhân loại còn khổ đau: nỗi năm châu – sự chia rẽ của phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ.

Biện pháp so sánh tấm lòng của Bác như lòng mẹ làm cho hình tượng lãnh tụ vừa gần gũi vừa cao cả trong tình thương. Những dòng thơ vừa có cảm xúc dạt dào vừa cô đọng, khái quát về lí tưởng sống của Người. Phong cách lối sống của Người khiến ai cũng phải ngưỡng mộ: Bác sống như trời đất của ta.

Khi đã thấu hiểu lòng người và lẽ trời thì con người sẽ có cách ứng xử phù hợp với tự nhiên nên hòa hợp với thiên nhiên. Con người ấy đã hòa nhập với tự nhiên vì đạt được những cái tự nhiên, nghĩa là đạt đến cái huyền diệu cao sâu của sự sống.

Và khi ấy con người sẽ nhận được sự nâng đỡ của tự nhiên để trường tồn cùng trời đất: Đó là ngọn nguồn sâu xa trong tinh thần lạc quan yêu đời của Bác, sinh thời Bác rất yêu thiên nhiên cây cỏ, chim muông và thích được sống giữa thiên nhiên. Cách ứng xử ấy biểu hiện bên ngoài của sự hòa đồng với trời đất.

Một đời thanh bạch chẳng vàng son

Mong manh áo vải hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi giữa lối mòn.

Nghĩ đến dân, đến nước mà không hề nghĩ đến mình là sự hi sinh và đức độ còn sống giản dị là hòa nhập với tự nhiên và là phong cách, phẩm chất trong sáng. Suốt cuộc đời người tận tụy hi sinh vì nước đến mức quên mình , còn bản thân Người sống đạm bạc, thanh sạch, cao khiết và rất mực giản dị.

Tấm gương đạo đức và nhân cách ấy làm cho Người trở nên vĩ đại giữa đời thường và bất tử trong lòng dân tộc, trở thành biểu tượng về con người Việt Nam đẹp nhất mọi thời đại. Những câu thơ giàu cảm xúc của Tố Hữu đã đạt đến sự cô đọng hàm súc và sức khái quát về nhân cách và lối sống Hồ Chí Minh. Ba khổ thơ cuối bài, cho dù tấm lòng có tiếc nhớ nhung nỗi buồn đã khuây khỏa nên tâm hồn bừng sáng lên niềm tin khi nghĩ về tương lai:

Bác đã lên đường theo tổ tiên

Mác-Lê nin thế giới Người Hiền

Ánh hào quang đỏ thêm sông núi

Dắt chúng con cùng nhau tiến lên!

Nguyện theo con đường, lí tưởng mà Bác đã chọn, tiếp tục cuộc hành trình nên nhà thơ thấy vững vàng, cứng rắn hơn khi nghĩ rằng Bác luôn bên cạnh:

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.

Âm hưởng đoạn thơ cuối điềm tĩnh, sâu lắng. Tình thương dạt dào đã lắng lại nên trí tuệ lắng kết một chân lí. Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn. Trước kia, trong bài thơ Sáng tháng Năm, Tố Hữu cũng đã thấy: “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta / Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”.

Đây là vẻ đẹp, sức cuốn hút kì diệu của lãnh tụ và ánh sáng tinh hoa của một nhân cách lớn có sức mạnh chinh phục, có tác dụng thanh lọc tâm hồn, nâng cao sức mạnh cho người đối diện. Sau này nhà thơ Việt Phương cũng viết:

Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt,

Vượt cao hơn sự chết, vẫn soi đường.

(Muôn vàn tình thân yêu bao trùm lên khắp quê hương)

Cuối bài thơ là niềm tin vào sự trường tồn của lãnh tụ trong sự nghiệp cách mạng, trong sự trường tồn của dân tộc. Bài thơ là tiếng khóc cao cả làm bất tử một con người cao cả.

Bài soạn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 4

Trong lời điếu văn đầy xót thương và cảm động đọc trước linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Dân tộc ta, nhân dân ta. non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”.

Nhà thơ Tố Hữu cũng đã thể hiện điều đó trong một bài thơ khóc Bác – Bác – Bác ơi! là tiếng khóc tiễn biệt, là lời “điếu văn bi hùng” bằng thơ (Xuân Diệu). Bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi đau xót và tiếc thương, mà còn là sự đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc đang tiếp diễn vô cùng gay go, quyết liệt, ngày 2- 9- 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Người qua đời là một tổn thất lớn lao đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. Trong những ngày ấy, cả dân tộc ta và bạn bè quốc tế đã biểu lộ nỗi tiếc thương, nỗi đau xót vô hạn trước sự ra đi của Người. Trong những ngày ấy, “Đời tuôn nước mắt, đời tuôn mưa..

Bác ơi! của Tố Hữu ra đời trong không khí những ngày đại tang ấy. Bài thơ như một bài “điếu văn bi hùng” thể hiện ở cả kết cấu, giọng điệu lẫn hình ảnh, ngôn ngữ thơ,… Tất cả đã bộc lộ nỗi đau xót, tiếc thương của tác giả đồng thời đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ mở đầu với khung cảnh đau buồn, tang tóc bao trùm lên toàn cõi Việt Nam trong những ngày mất Bác:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”

Không hiểu sao trong những ngày Bác mất, trời mưa tầm tã. Phải chăng tổn thất lớn của dân tộc ta đã lay động đến cả trời xanh làm cho cao xanh kia cũng tuôn trào nước mắt? Hay chính là nước mắt của con dân Việt Nam khóc người cha già dân tộc đã thăng hoa, hòa vào vũ trụ và ngưng kết thành mưa? Nhà thơ đã đồng nhất “đời” và “trời” tạo thành một ý thơ có sức khái quát diễn tả nỗi đau lòng mình và nỗi đau dân tộc trước tổn thất quá lớn lao.

Đó là những giọt nước mắt nóng bỏng chất sử thi – một dân tộc anh hùng tiếc thương một anh hùng dân tộc. Nỗi tiếc thương khiến cỏ cây, đất trời bỗng trở nên bùi ngùi, tâm hồn người bỗng trở nên ngơ ngác:

“Chiều nay con chạy về thăm Bác

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa”

Khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh nhà Bác,… tất cả vẫn còn đây, nhưng tất cả đều thẫn thờ:

“Con lại lần theo lối sỏi quen

Đến bên thang gác đứng nhìn lên

Chuông ôi chuông nhỏ còn reo

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!…

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm

Quanh mặt hồ in mây trắng bay”

Đoạn thơ với rất nhiều câu hỏi và câu cảm thán. Những dấu hỏi, dấu cảm, dấu chấm lửng, những thán từ cùng với cách ngắt nhịp chậm, nhịp dài ngắn đan xen đã diễn tả một cách xúc động nỗi tiếc thương nghẹn ngào trong lòng nhà thơ. Bài thơ với lối kết cấu như một bài điếu văn cổ điển (lung khỏi- thích thực- ai vãn).

Tính cổ điển trong kết cấu đã nâng hình tượng thơ và cảm xúc của nhà thơ lên tầm vóc lịch sử và thời đại. Đó là hình tượng của muôn đời và cảm xúc của muôn người. Hình tượng Bác hiện lên trong nỗi tiếc thương vô hạn xen lẫn niềm kính phục thiêng liêng.

Phần thứ hai của bài thơ thể hiện những suy ngẫm, những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chi Minh: Người là tình yêu bao la, Người mang nỗi lo ” muôn mối như lòng mẹ”, Người “nâng niu tất cả chỉ quên mình”, Người luôn mang hình bóng miền Nam trong trái tim, Người “Một đời thanh bạch, chẳng vàng son”,…

Đoạn thơ với chất giọng trầm hùng bi tráng, với những hình ảnh vừa giản dị. vừa lớn lao rất phù hợp với hình tượng Bác Hồ và nỗi tiếc thương, niềm thành kính của nhà thơ đối với Bác. Còn gì đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi nhà thơ dùng hình tượng trái tim để biểu tượng cho tình cảm bao la của Bác: “Bác ơi, tim Bác mênh mông thếÔm cả non sông, mọi kiếp người”. Còn gì giản dị gần gũi hơn và cũng bao dung trời biển hơn khi nhà thơ so sánh tấm lòng của Bác với tấm lòng của người mẹ:

“Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ

Cho hôm nay và cho mai sau”

“Bác sống như trời đất của ta”,

Bác đem “Tự do cho mỗi đời nô lệ” và Bác còn “Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa”, Bác dành sữa cho em thơ và tặng lụa cho người già. Con người của “trời đất”, của “tự do” được lồng trong con người của đời thường. Con người vĩ đại Hồ Chí Minh hòa vào con người bình thường Hồ Chí Minh tạo nên một vẻ đẹp vừa lớn lao, vĩ đại vừa gần gũi, thân thiết. Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt đối với miền Nam.

Bác nói: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”. Để đáp lại lòng mong mỏi của cháu con trong Nam, Bác đã dự định sẽ vào thăm nhưng dự định chưa kịp thực hiện thì… Tố Hữu đã so sánh:

“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”

Nỗi nhớ thương miền Nam của Bác giống như “nỗi nhớ nhà” và nỗi mong ngóng Bác của miền Nam giống như “nỗi mong cha”. Nỗi nhớ thương gắn với nỗi đau chia cắt thân mình Tổ quốc và khát vọng thống nhất, đoàn tụ. Câu thơ diễn tả một thứ tình cảm rất gia đình nhưng ý thơ vượt lên câu chữ để diễn tả một vấn để mang tính sử thi của thời đại và dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh suy tưởng mang tính khái quát cao mà vẫn chan chứa cảm xúc:

“Bác để tình thương cho chúng con

Một đời thanh bạch chẳng vàng son

Mong manh áo vải, hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”.

Bác để lại nhiều: độc lập, tự do, cơm no, áo ấm,… Nhưng tất cả đều xuất phát từ một thứ vô cùng quý giá: “tình thương”- “Bác thương các cụ già”, “Bác thương đàn cháu nhỏ”, “Bác thương đoàn dân công”,… Bác thương dân, yêu nước nên đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bác “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Đúc kết cuộc đời Bác, nhà thơ chiêm nghiệm và nhận thấy hai phẩm chất nổi bật: tình yêu thương quên mình và sự giản dị thanh cao.

Tác giả dùng hình tượng “áo vải” mong manh để nói về “một đời thanh bạch”, thể hiện phẩm chất giản dị mà thanh khiết vô ngần của Bác. Bác là vậy, giản dị mà vĩ đại, “áo vải” mà “hồn muôn trượng”. Đoạn thơ với rất nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ đã thể hiện một cách sâu sắc những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tố Hữu đã vĩnh hằng hóa, bất tử hóa hình tượng Bác Hồ trong thiên nhiên, đất trời và trong lòng người. Đoạn thơ thể hiện niềm cảm phục thành kính, niềm tự hào thiêng liêng trước anh linh của vị cha già dân tộc. Trong niềm xúc động, niềm cảm phục và tự hào, nhà thơ đã thay mặt con dân nước Việt thầm nói lên lòng mình:

“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều

Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!

Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước..”

Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều”.

Và thầm hứa với Bác:

“Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn

Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”.

Biến đau thương thành hành động, cả dân tộc Việt Nam đã đứng lên thực hiện di chúc của Bác. Sáu năm sau ngày Bác đi xa. chúng ta đã “đánh cho Mĩ cút, đánh cho Ngụy nhào”, đem lại hòa bình, thống nhất, nối liền một dải non sông và xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trong số rất nhiều những bài thơ viết về Bác, cùng với trường ca Theo chân Bác, Bác ơi! là một thành công lớn của nhà thơ Tố Hữu.

Bài thơ là niềm xúc động dâng trào và những chiêm nghiệm sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Cha già dân tộc, người anh hùng vĩ đại của thế kỉ XX. Bác ơi! là bài thơ khóc Bác nhưng đó là những dòng nước mắt nóng bỏng chất sử thi.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 5

  Bác ra đi, để lại muôn vàn những đớn đau tiếng nuối cho cả dân tộc, nhưng không chỉ có triệu triệu người con khóc thương Người, mà cả vũ trụ thiên nhiên dường như cũng mang trong nó nỗi sầu vũ trụ khi chứng kiến sự ra đi của Bác:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…

Chiều nay con chạy về thăm Bác

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!”

        Động từ “tuôn” là một cách dùng từ rất đắt của Tố Hữu, tưởng như một nguồn xúc động đau thương mãnh liệt, nghẹn ngào mà thiên nhiên bày tỏ trước sự ra đi vĩnh hằng của Bác. Bác là vị lãnh tụ dân tộc vĩ đại, nhưng Bác cũng là một thi nhân với tâm hồn yêu say thiên nhiên, thiên nhiên không ít lần bàu bạn cùng Bác trong những đêm thức khuya bàn việc quân, vậy nên dường như đã là tri kỉ, nên cả vũ trụ rộng lớn tưởng chỉ vần vũ xoay vần theo con tạo, nó cũng khóc thương người, tiếc thương người. Bác ra đi, để lại một khoảng trống mênh mông và hoang hoải trong lòng triệu triệu đứa con, nhưng cũng làm hoang lạnh cả thiên nhiên gần gũi, mộc mạc ở căn nhà gỗ nhỏ đơn sơ: ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa.

“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!

Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời

Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội

Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!”

         Tiếng gọi thổn thức của nhà thơ chính là tâm trạng của cả dân tộc khi hay tin Người không còn bên cạnh để dìu dắt cả dân tộc bước lên đỉnh vinh quang, cũng là sự ngậm ngùi chua xót vì chính Bác là người đã cùng nhân dân góp sức đồng lòng phá tan xiềng xích áp bức, là người lãnh tụ vĩ đại chèo lái con thuyền cách mạng để nó cập bến thành công. Ấy vậy mà, nay đại công cáo thành Người lại chẳng kịp ngắm nhìn giang sơn tươi đẹp mà Người đã lao tâm, lao lực, đổ biết bao máu, mồ hôi nước mắt gầy dựng nên: Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời, nhưng chỉ tiếc là Người lại phải vĩnh biệt ra đi, ngày toàn thể dân tộc mở hội, Người lại không thể cùng hòa chung bầu không khí hứng khởi, vui tươi ấy, quả thật ngậm ngùi chua xót làm sao. Các cảm thán từ đã giúp tăng hiệu quả diễn đạt của câu thơ, để nó không chỉ có ý nghĩa biểu cảm trên trang giấy, mà còn tạo nên sự đồng điệu tâm hồn, sự xúc động ngậm ngùi tột cùng trong lòng người đọc.

         Cả cuộc đời Người là cả cuộc đời hy sinh, cả cuộc đời hiến dâng cho sự nghiệp vĩ đại của dân tộc:

“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông, mọi kiếp người”

         Trái tim Bác mênh mông, tưởng như đại dương thẳm sâu bao la, đã chở che, đã nâng đỡ, đã cưu mang và thương cảm, trân trọng tất cả những người dân nghèo khổ, lầm than. Trọn kiếp, tất cả những gì vị lãnh tụ vĩ đại khiến triệu triệu người con ghi lòng tạc dạ, đó là Người chưa một lần đặt cái cá nhân cao hơn lợi ích dân tộc, đặt địa vị cao hơn nỗi thống khổ của dân tộc lầm than. Người đứng cùng dân tộc, Người hy sinh và trao trọn cả những gì lớn lao vĩ đại nhất của tâm hồn mình cho sự nghiệp vĩ đại của cả dân tộc, để làm sao cho niềm mong ước, mong mỏi nhân dân được an lành ấm no, thoát khỏi sự kiềm tỏa của áp bức xiềng xích. Vừa dùng thời gian trường cửu và không gian mênh mông để tưởng nhớ và khắc cốt ghi tâm sự cống hiến và tấm lòng hy sinh cao cả vĩ đại của Người, Tố Hữu đã một lần nữa hình tượng hóa, kì vĩ hóa tầm vóc của Bác.

“Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già.

Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha

Bác nghe từng bước trên tiền tuyến

Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa”

        Tâm hồn Người, dẫu khi còn tại thế hay khi đã yên giấc ngàn thu, vẫn mang theo mỗi ngọn cỏ, nhanh hoa, nắm đất của dân tộc, đó là sự gắn bó, là sự yêu thương không gì tả xiết của vị lãnh tụ vĩ đại.

“Bác vui như ánh buổi minh

Vui mỗi mầm non, trái chín cành

Nâng niu tất cả, chỉ quên mình.”

        Bác sống giản dị, thanh bạch. Tưởng như sự giản dị và  thanh cao trong lối sống của Người đã trở thành biểu tượng mà muôn đời triệu triệu người con khắc ghi mãi không quên:

“Mong manh áo vải, hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn

…Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều

Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu?

Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước…”

Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều

Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn

Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.”

        Bác ra đi để lại muôn ngàn nhớ thương, xúc động và khắc khoải khôn nguôi trong lòng muôn thế hệ người dân đất Việt, nhưng Người vẫn gửi lại tấm lòng yêu nước thương dân sâu nặng của mình, hi vọng cả dân tộc sẽ ngày càng lớn mạnh, thiên thu.

         Bài thơ chân thật và thấm thía như những dòng tâm sự xúc động thiêng liêng mà Tố Hữu gửi đến Bác, cũng là dịp để qua đó, những người con đất Việt hướng tấm lòng thành kính tới Người, người cha già vĩ đại của dân tộc. Qua đó, ta cũng thấy được phần nào tấm lòng và chất thơ của Tố Hữu, trữ tình đằm thắm mà vẫn sâu sắc lắng đọng.

Nguồn : Tổng Hợp

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *