Bài văn mẫu lớp 10: Bài viết số 2 bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 10 bài văn mẫu từ đề số 1 đến đề số 5. Giúp các em biết cách lập dàn ý chi tiết, tích lũy thêm vốn từ cho mình để viết văn ngày một hay hơn. Bài viết số 2 lớp 10 gồm 5 đề sau:
- Đề 1: Em hãy kể lại 1 kỷ niệm sâu sắc nhất về gia đình, bạn bè, người thân, thầy cô.
- Đề 2: Hãy tưởng tượng một kết thúc khác cho truyện Mị Châu – Trọng Thủy.
- Đề 3: Kể lại một truyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích.
- Đề 4: Hãy tưởng tượng mình là Xi- Mông, kể lại câu chuyện Bố của Xi-Mông
- Đề 5:Kể lại chuyện sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thuỷ cung, Trọng Thuỷ đã tìm gặp lại Mị Châu.
Dàn ý Bài viết số 2 lớp 10 đề 1
1. Mở bài:
a) Em đi vào giấc mơ như thế nào? Lúc đó tâm trạng em như thế nào?
b) Em gặp lại người thân là ai? Quan hệ với em như thế nào? Cách xa bao lâu? Lí do gì xa cách em lâu thế? Cảm xúc của em khi gặp lại người thân?
2. Thân bài:
a) Giới thiệu chung về người thân: Người thân bây giờ ở đâu? Làm gì? Tình huống nào em gặp lại người thân?
b) Khi gặp lại quan sát thấy người thân như thế nào? Diện mạo? Hình dáng? Y phục? Cử chỉ? Nét mặt? Động tác? Lời nói…(Chủ yếu tả người và hành động)
c) Người thân có những nét gì khác so với lúc trước khi xa không? (So sánh từ hình dáng bên ngoài với tính cách bên trong trước đó và bây giờ?)
Nhận xét và suy nghĩ của em.
d) Nhớ và kể lại những kỉ niệm gắn bó với người thân.
e) Em và người thân đã trò chuyện như thế nào? Nói với nhau những gì? (Kể lại sinh động và lồng vào cảm xúc)
f) Cuối buổi gặp gỡ những việc gì xảy ra? Cảm xúc của em?
g) Cái gì đã đánh thức em dậy? Tâm trạng em như thế nào? Cảm xúc lâu lắng?
3. Kết bài:
a) Giấc mơ tan biến – trở về hiện thực – ấn tượng sâu sắc nhất của em và người thân là gì?
b) Cảm xúc của em ra sao, khi nhớ lại cuộc gặp gỡ này?
c) Em có cảm nghĩ gì? Sẽ làm gì để người thân vui long?
Bài viết số 2 lớp 10 đề 1
Mẫu 1
Đã bao giờ bạn tin rằng sau một giấc mơ những điều bạn hằng mong ước bấy lâu sẽ trở thành sự thật? Đã có lúc tôi rất tin vào điều đó và luôn nhớ khoảnh khắc kỳ diệu mà giấc mơ đã đem đến cho tôi.
Hôm ấy là một buổi tối cuối tuần, trời đầy sao và gió thì dịu nhẹ. Tôi nằm trên trần nhà mơ mộng đếm những vì sao. Bỗng nhiên tôi thấy cả không gian như bừng sáng. Trong vầng hào quang sáng lấp lánh, ông tôi cười hiền từ bước về phía tôi. Tôi sung sướng đến nghẹt thở ngắm nhìn gương mặt phúc hậu, hồng hào và mái tóc bạc phơ của người ông yêu quí. Ông tôi vẫn thế: dáng người cao đậm, bộ quân phục giản dị và cái nhìn trìu mến! Tôi ngồi bên ông, tay nắm bàn tay của ông, tận hưởng niềm vui được nâng niu như thuở còn thơ bé… Tôi muốn hỏi những ngày qua ông sống như thế nào? Ông ở đâu? Ông có nhớ đến gia đình không… Tôi muốn hỏi nhiều chuyện nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu cả.
Ông kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích mà ngày xưa ông vẫn kể. Giọng ông vẫn thế: rủ rỉ, trầm và ấm. Ông hỏi tôi chuyện học hành, kiểm tra sách vở của tôi. Đôi mày ông nhíu lại khi thấy tôi viết những trang vở cẩu thả. Ông không trách mà chỉ ân cần khuyên nhủ tôi cố gắng học tập chăm chỉ hơn. Ông nhìn tôi rất lâu bằng cái nhìn bao dung và khích lệ. Ông còn bảo những khát vọng mà ông làm dang dở,cháu hãy giúp ông biến nó thành hiện thực. Những khát vọng ấy ông ghi lại cả trong trang giấy này. Muốn làm được điều ấy chỉ có con đường học tập mà thôi…
Ông dẫn tôi đi trên con đường làng đầy hoa thơm và cỏ lạ. Hai ông cháu vừa đi vừa nói chuyện thật vui. Ông bảo đến chợ hoa xuân, ông muốn đem cả mùa xuân về căn nhà của cháu. Ông chọn một cành đào, cành khẳng khiu nâu mốc nhưng hoa thì tuyệt đẹp: màu phấn hồng, mềm, mịn và e ấp như đang e lệ trước gió xuân. Nụ hoa chi chít, cánh hoa thấp thoáng như những đốm sao. Tôi tung tăng đi bên ông, lòng sung sướng như trẻ nhỏ. Ông cầm cành đào trên tay. Có lẽ mùa xuân đang nấp cả trong những nụ đào e ấp ấy… Xung quanh ông cháu tôi, kẻ mua, người bán, ồn ào và náo nhiệt. Họ cũng đang chuẩn bị đón xuân về!
Tôi đang bám vào tay ông, ríu rít trò chuyện về những ngày xuân mới sắp đến, chợt nghe tiếng mẹ gọi rất to. Tôi giật mình tỉnh dậy, thấy mình vẫn đang nằm trên trần nhà. Lòng luyến tiếc nhận ra tất cả chỉ là một giấc mơ thôi…
Giấc mơ chỉ là khoảnh khắc kỳ diệu đáp ứng niềm mong nhớ của tôi. Tôi nuối tiếc song cũng học được nhiều điều từ giấc mơ đó. Và quan trọng nhất là tôi được gặp ông, được ông truyền cho niềm tin và sự nỗ lực cố gắng thực hiện những ước mơ của chính mình.
Mẫu 2
Kỷ niệm, cũng giống như những phím đàn – khi chạm tay vào, âm thanh sẽ ngân lên, nhưng không phải lúc nào cũng tuyệt vời, mà có cái hay, cái dở, cái muốn nhớ, cái lại thích xóa đi. Với em điều đáng nhớ nhất trong đời học sinh là chút kỷ niệm về thầy.
Cô nhỏ nhớn mày lên, nhìn xuống đồng hồ đeo tay, rồi dõi mắt ra ngoài cửa lớp. Nơi dãy hành lang dài đang im ắng, chờ đợi, lắng nghe tiếng giày gõ nhịp để thầm đoán: thầy hay cô? Giờ Toán của lớp 8/1 hôm nay thay đổi giáo viên. Cô giáo cũ nghỉ hộ sản. Thầy giám thị thông báo sẽ có giáo viên mới đến thay. Mười lăm phút trôi qua nhanh chóng trong sự sốt ruột của học trò. Phía cuối lớp có ai nghịch ngợm ngân nga: “Mười lăm phút đồng hồ, buồn nhớ Toán thấy mồ, buồn như con cá rô… đang trôi… vào tô…”
– Nghiêm!
Giọng trưởng lớp vang to, khá oai (nhờ to con). Thầy giám thị xuất hiện. Gần một trăm con mắt học trò đen láy đổ dồn về phía cửa. Thấp thoáng phía sau thầy là một bóng dáng lạ, chắc “ông” thầy Toán mới ?!!. Ô, nhưng sao mà… giống học trò quá đỗi!!!
Thầy giám thị cười khá tươi:
– Xin giới thiệu với các em, đây là thầy T sẽ phụ trách môn Toán lớp 8/1 thay cho cô N…
Một tràng pháo tay ngưỡng mộ (?) vang lên như mưa rào tháng sáu. Thầy T mỉm cười gật nhẹ đầu “chào các em thân mến!”. Ôi chao, hai má thầy sao mà đỏ như màu xác pháo, cặp kính cận suýt chút nữa rơi khỏi sóng mũi. Chắc vì cảm động trước “thịnh tình” của lũ học trò cỡ… hoa khôi đến hai phần ba lớp, dành cho!
Trước khi trở về văn phòng, thầy Giám thị còn “ân cần dặn dò”:
– Các em phải học cho ngoan. Nhớ là không được phá thầy!
Ôi! Lời “đe nẹt” ấy không phải là không có duyên cớ. Bởi vì, con gái 8/1 có truyền thống mấy mùa tuy thông minh, học giỏi, đẹp người, tốt hạnh kiểm nhưng… chuyên nghịch ngợm cũng đứng vào hàng… quái chiêu! Thầy cô thương cũng lắm, mà dở khóc, dở cười cũng nhiều. Không biết trước khi vào lớp, thầy T đã “nghiên cứu lý lịch” học trò chưa mà… ngó bộ thầy “bình tĩnh rồi … run” thấy rõ.
Sau màn tự giới thiệu rất “dễ sương” – Sinh viên năm cuối Đại Học Khoa học tự nhiên (bằng cái giọng mà phong thái điệu đà như con gái). Thầy vui vẻ đòi … kiểm tra bài cũ. Bốn mươi mấy cái miệng than trời cùng lúc vẫn không làm thay đổi được quyết định “sắt đá” của thầy. Thầy cầm quyển sổ điểm dò tên (sao thầy không chịu nhìn vào sơ đồ lớp nhỉ?!) rất lâu, hai bàn tay run run (chắc do bị học trò “chiếu tướng” khá kỹ). Khi cây viết đỏ hạ xuống gần giữa sổ, một cái tên được xướng lên:
– Trần Thị L.N.
Cả lớp im phăng phắc theo từng bước đi “dịu dàng” của N., để rồi sau đó hai phút, bổng nổ ra một trận cười bom dội – N là một cô gái có dáng dấp “oai phong” của một vận động viên bóng rỗ. Cao 1 m 65, học muộn hai năm nên rất đáng mặt đàn chị so với cả lớp: Trong khi thầy T ốm nhom, chiều cao chỉ khoảng 1 m 60 hay 1 m 62 gì đó (cộng luôn bề dày đế của đôi giày da mũi nhọn rộng quá khổ chân). Một sự tương phản khá hài hước. Thầy T điếng người, mặt đỏ như người say nắng biển, vội vã hỏi dăm ba câu lấy lệ rồi “mời” em N về chỗ. Quyển sổ điểm được gấp lại vội vàng và bài học mới bắt đầu cũng rất nhanh chóng…
Cái sự khởi đầu nan ấy rồi cũng qua mau, rồi mọi chuyện cũng biến thành kỉ niệm. Mà kỉ niệm lại bắt đầu từ sự nhiệt tình khá ngây ngô của cả thầy lẫn trò, lúc hai bên biết “hợp đồng tác chiến” trong những giờ học Toán.
Em còn nhớ một lần, thầy T có hứa sẽ dựng mô hình cho một bài toán hình học không gian khó nuốt, để học trò dễ hình dung hơn là nhìn vào hình vẽ. Vậy mà, hai lần, ba lượt thầy cứ quên. Lúc thì thầy bận học, lúc lại bận soạn bài cho môn dạy, lúc làm xong rồi nhưng để quên ở Ninh Hòa!!! Lần cuối cùng, thầy nhớ đem theo, mà xe đò đông quá, thiên hạ chen nhau làm hỏng mất mô hình của thầy!! Học trò đâu chịu tin! Học trò đòi thầy dựng mô hình ngay tại lớp. Thầy bối rối “huy động” thước kẻ với số lượng tối đa, “chấm” các em bé bỏng ở hai dãy bàn đầu (trong đó có cô nhỏ dễ thương) lên giúp thầy dựng mô hình. Trời đất! Năm bảy mái tóc thề, hơn một chục bàn tay nho nhỏ, cộng thêm thầy đứng vây quanh chiếc bàn thầy giáo thì… còn ai nhìn thấy được gì! Vậy là thầy cho học trò xếp hàng một, theo từng dãy bàn có trong lớp, từ từ tiến về phía “mô hình sinh động” tham gia theo kiểu “cưỡi trực thăng xem hoa”. Vậy mà vui ghê gớm, vậy mà rất hòa bình. Cả thầy lẫn trò không ai thấy được nét ngây ngô, khờ khạo trong hành động của mình, mà còn xem như đó là một “kỳ tích” của thứ chỉ số IQ thuộc vào loại thông minh?
Nhưng không phải lúc nào cũng hòa bình. Rồi cũng có lần, thầy nổi giận hét to như “Trương Phi” chỉ vì chút nghịch ngợm đi quá đà của lũ học trò thơ dại, tinh nghịch. Khiến học trò rơm rớm nước mắt tủi hờn. Còn thầy bất chợt dịu xuống như giọt nắng cuối thu để hỏi một câu thật dễ “Ký kết hiệp ước hòa bình”:
– Ôi, sao bỗng dưng các em ngoan quá vậy?
Vâng, thầy T của em là vậy đó – người không biết giận lâu, người rất dễ quên hờn, dễ nhập cuộc với áo trắng ngu ngơ. Thầy như một chiếc lá, vô tình vờ rơi xuống mặt nước hồ đang dao động của tuổi học trò, góp thêm một con sóng giao thoa nhỏ bé, rồi lại theo gió cuốn bay đi … Thầy dạy chưa hay, giảng bài chưa hấp dẫn. Chúng em biết vậy, nhưng học trò không chê, mà mặc nhiên chấp nhận như một thứ kỉ niệm, xếp bên cạnh những tầng lớp kỉ niệm phải có trong tuổi ngây thơ, đáng quý của tuổi học trò. Thầy T rất hẳn nhiệt tình (dẫu rằng thầy càng nhiệt tình giảng giải, học trò càng… nhiệt tình ngơ ngác!). Bởi đối với thầy T, tất cả những gương mặt trong sáng ngồi bên dãy bàn học bằng gỗ dưới kia, đều được thầy xếp đồng đẳng bằng một cái “mác” học trò đơn giản. Chúng như một quần thể tập hợp từ những cá thể lạ lẫm mà thầy đang có nhu cầu khám phá và ghi nhớ. Nhu cầu hòa nhập để vô tư yêu mến, bỏ qua những cái mà thiên hạ âu yếm gọi là danh vị, tiền tài của mẹ cha chúng bên ngoài xã hội …
Nếu có ai bảo học trò 8/1 ngày ấy – Hãy chọn ra một nhân vật kỳ lạ nhất trường. Cô nhỏ năm xưa tin chắc, cả lớp sẽ đồng lòng bỏ phiếu cho thầy – Thầy T, thầy Toán lớp em.
Ai bảo học trò ngày xưa khác với ngày nay? Đâu có, khá giống nhau đấy chứ (khi nhìn theo một khía cạnh muốn nhìn!). Họ cũng thích cóp nhặt kỷ niệm, hình thành từ những mảnh pha lê rơi rớt (dẫu không tròn trịa) trong suốt khoảng đời còn làm… “Cái thứ ba… danh tiếng…”
Bài viết số 2 lớp 10 đề 2
Mẫu 1
Dưới Âm ti, tại đại sảnh, Diêm Vương đang xem xét sổ sách thì 1 tên Quỷ Vô Thường chạy vào, bẩm báo:
– Bẩm Vương, cô nương Mị Châu vẫn cứ đứng ở bến U Linh. Vậy…vậy…phải xử thế nào, thưa Vương?
– Mặc nàng ta. Cô nương ấy đang chờ tướng công thì đi làm sao? Nàng ta cũng không làm gì ảnh hưởng đến Âm ti…
Vương mệt mỏi xua xua tay, ý đuổi tên Quỷ Vô Thường kia đi. Tên quỷ biết ý, không dám làm phiền, khép nép đi ra ngoài. Diêm Vương đứng dậy, bước đến chỗ đặt Bảo Kính, miệng khẽ lẩm nhẩm, chợt trên mặt Bảo Kính hiện ra một bạch y cô nương, xinh đẹp vô ngần nhưng đôi mắt hạnh tràn ngập thê lương.Vương khẽ thở dài. Cô nương đó chính là Mị Châu- công chúa Âu Lạc, xuống Âm ti được hơn 1 tháng, nhưng vẫn không chịu uống bát canh của Mạnh Bà, bởi nàng đang chờ tướng công.
Sông U Linh là một khúc sông dài nghìn trượng, làn nước trong vắt, không có một gợn sóng, nhưng dưới đáy sông đầy rẫy những linh hồn mắc trọng tội, không thể ngoi lên để đầu thai kiếp khác. Sương khói mịt mờ, khung cảnh ảm đạm thê lương. Ngay gần đó là bóng dáng một người con gái, trên người khoác chiếc áo lông ngỗng trắng muốt, những giọt máu bắn lên vô tình tạo thành những bông hoa đào đỏ tươi, đẹp không nói nên lời. Mái tóc mây dài mềm mượt khẽ bay, bạch y cũng lay động, nhìn nàng như một tiên nữ. Nhưng khuôn mặt lại đờ đẫn vô cảm, thủy mâu lạnh lùng nhìn về phía xa xa. Xung quanh nàng tĩnh mịch, yên ắng đến lạ thường. Bỗng có tiếng nói:
– Tội nhân Trọng Thủy ra bến U Linh. Thời hạn một canh giờ.
Hai tiếng Trọng Thủy vang lên khiến Mị Châu chấn động, rồi ngay lập tức lại khôi phục thần sắc như cũ. Có tiếng bước chân nhè nhẹ đằng sau nàng, rồi một giọng nói trầm ấm quen thuộc:
– Nương tử?
Nàng từ từ quay đầu lại. Đôi mắt hạnh lạnh lùng giờ long lanh ngấn lệ, nỗi vui mừng hiện rõ trên gương mặt. Nàng nghẹn ngào:
– Tướng công! Đúng là chàng rồi. Thiếp…thiếp đã chờ chàng, thiếp đã hứa rồi mà, chàng đã xuống, thiếp… thiếp mừng khôn xiết.
Nàng nhìn kĩ Trọng Thủy, chàng vẫn ôn nhu tuấn mỹ như trước, có điều tiều tụy xanh xao hơn mà thôi. Những ngày tháng êm đềm trước kia như hiển hiện rõ mồn một trước mắt nàng, rồi đến cái ngày định mệnh kia, từng chi tiết dù là nhỏ nhất nàng cũng sẽ mãi mãi vĩnh viễn không bao giờ quên được. Nụ cười như đóa hoa hàm tiếu trên cánh môi nàng vụt biến mất, sự mừng vui hạnh phúc cũng biến mất, chỉ còn lại sự lạnh nhạt xa cách và một tia hận ý lóe lên trong đôi mắt đen kịt. Trọng Thủy thấy thần sắc Mị Châu thay đổi, bèn lo lắng hỏi:
– Nàng làm sao vậy?
Nói đoạn chàng đưa tay định nắm lấy vai nàng. Nhưng chợt nhìn thấy một vòng tròn đỏ tươi trên cổ trắng ngần của Mị Châu, chàng bèn rụt ngay tay lại. Giọng chàng khàn khàn:
– Nàng nàng vẫn trách ta về việc việc đó sao?
Mắt Mị Châu vẫn không rời màn sương mờ ảo trên dòng U Linh,trên môi khẽ nở nụ cười nhạt, giọng nàng lạnh như băng tuyết:
– Thiếp không dám trách tướng công. Thiếp là nương tử của chàng, coi chàng là trời. Thân là phận nữ nhi, làm sao mà dám oán thán nửa lời.
Những lời nói của Mị Châu như hàng ngàn, hàng vạn lưỡi đao sắc dày vò tâm can Trọng Thủy. Dọc đường xuống bến U Linh này chàng đã suy nghĩ rất nhiều về những việc làm ngày trước của mình, những tội nghiệt chàng gây ra cho Mị Châu, cho bách tính Âu Lạc. Chàng cũng không dám mong chờ nàng sẽ dung thứ cho mình nhưng cũng không muốn nghe những lời này, từng câu từng chữ như rạch nát tim chàng. Chàng biết chàng không còn tư cách để xin tha thứ, mà chàng cũng chẳng muốn van cầu sự tha thứ từ Mị Châu. Nhưng… Chàng đang do dự, muốn nói vài lời hối hận nhưng rồi nhận ra mình là kẻ tội đồ, giờ có nói gì cũng chỉ là lời nói đầu môi. Hai người im lặng hồi lâu, Mị Châu chợt cất tiếng, giọng nói trong trẻo như hoa, như ngọc nhưng cũng thật lạnh lùng:
– Chàng đang hối hận? Chỉ tiếc rằng đã quá muộn.
Trọng Thủy cứng nhắc gật đầu, hai chân vẫn chôn xuống đất không thể cất bước. Chàng nhìn bóng hình Mị Châu, chợt nhận ra nàng cũng cô đơn, cũng đau khổ biết bao. Đúng, giờ có hối cũng đã muộn, rất muộn! Tiếng quạ kêu từng hồi, từng hồi thê thiết, nghe thật não nề, thê lương. Khung cảnh lại trở nên tĩnh mịch, ngột ngạt đến nghẹt thở. Trọng Thủy lên tiếng trước, phá vỡ bầu không khí im lặng:
– Đúng, ta biết giờ mới hối hận cũng đã muộn. Nàng muốn mắng chửi gì ta cũng cam lòng. Bởi ta biết, tội của ta có chết nghìn lần cũng chẳng thể nào được tha thứ. rồi chàng bật cười to, tiếng cười chát đắng:
– Ha! Ha! Ha! Tại sao một kẻ như ta, kẻ đã gieo rắc chết cho bách tính Âu Lạc lại đã từng mong chờ có được sự tha thứ? Lại đã mong chờ nàng sẽ trở về bên ta, sống hạnh phúc trên máu xương của người dân Âu Lạc? Đôi bàn tay vấy máu người dân vô tội này sao còn mong chờ được nắm lấy tay nàng? Ta quả là hồ đồ, ngu ngốc. Ta đã sai, sai từ đầu tới cuối. Đáng lẽ ta không nên chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nếu thế thì nàng cũng không vì ta mà chết, người dân Âu Lạc cũng không vì ta mà chết, ta cũng chẳng vì nàng mà đau khổ, mà dằn vặt. Không, không… Như thế thì ta sẽ không gặp được nàng, sẽ không được nghe nàng hát, nàng đàn khúc “Nguyệt tâm”, sẽ không được được thấy nàng nói chuyện, sẽ không được vuốt mái tóc mềm mượt hơn mây sẽ không sẽ không được yêu nàng.
Chàng nói tới đây bất giác nghẹn lời, nước mắt trào ra, từng giọt lệ rơi xuống miệng chàng. Mặn. Đắng. Nước mắt đau khổ. Nước mắt của hối hận. Nước mắt của đau đớn đến tận cùng. Một người như chàng mà cũng khóc ư?
Mẫu 2
Sau khi Triệu Đà chiến thắng An Dương Vương, Trọng Thủy (Trọng Thủy) cùng vua cha quay trở về đất nước. Mặc dù trở thành người anh hùng của dân tộc nhưng Trọng Thủy không thoát khỏi sự dằn vặt của lương tâm vì đã trót lừa dối Mị Châu, người vợ yêu quý của mình. Khi nhớ đến người con gái ấy, chàng lại buồn, ra giếng nước- nơi mà Mị Châu hay ngồi chải tóc để nhớ về những kỉ niệm về nàng. Một hôm, chàng thấy bóng Mị Châu dưới nước, nàng vẫy tay gọi chàng, chàng thấy đôi mắt to, đen, tròn của người vợ yêu đang nhìn chàng. Trọng Thủy nhảy xuống giếng với hi vọng được gặp Mị Châu, mong được nàng thông cảm và tha thứ cho những việc mà mình đã làm. Nhưng ngờ đâu, đó chỉ là ảo ảnh, là hình ảnh do Trọng Thủy tưởng tượng ra vì luôn nghĩ về Mị Châu. Khi nhận ra mình đã nhìn nhầm, chàng cũng không ân hận, chàng phó thác số phận cho ông trời định đoạt, chàng muốn về với biển cả, nơi mà vợ mình đã bị chính cha ra tay chém chết… Chàng muốn chết để đền tội với Mị Châu.
Về phần Mị Châu, sau khi chết, nàng được Rùa Vàng giúp đỡ cho sống ở Long Cung, ở đây,dù sống trong thế giới đầy đủ, sung sướng nhưng những kí ức về Trọng Thủy vẫn không hề nhạt dần theo thời gian… Hằng đêm, nàng khóc, khóc vì một phần do nhớ ck, nhớ quê hương, nhớ dân tộc, khóc vì giận Trọng Thủy đã lừa dối, phải bội mình, khóc vì ân hận đã yêu Trọng Thủy một cách mù quáng, lú lẫn,..vì Trọng Thủy mà giờ đây nàng đã là tội đồ của dân tộc. Nhiều lúc, Mị Châu thấy tuyệt vọng vì số phận nàng sao mà bi ai đến thế, nàng buồn cho chính số phận của bản thân, may mà nhờ An Dương Vương, Rùa Vàng, Thủy Linh công chúa (con của Long Vương) an ủi, lòng nàng cũng nhẹ bớt. Nhưng mỗi lúc nhớ đến ck mình, nỗi đau trong tim lại trào dâng, từng dòng lệ cay chảy ra từ khóe mắt nàng.
Thần kim quy thấy tình cảm giữa Mị Châu và Trọng Thủy vẫn còn sâu đậm nên ra tay giúp đỡ, cho 2 người gặp lại nhau. Xác Trọng Thủy vữa ra, trôi theo dòng nước đến biển Đông, hồn chàng bay theo gió, thần Kim Quy liền nhập thành một, ban cho khả năng sống dưới nước, báo Trọng Thủy tìm đến được Long cung, trước mắt chàng là một cơ ngơi đồ sộ, nguy nga, lộng lẫy mà chàng chưa từng thấy. Cổng Long cung được canh gác cẩn thận với đội quân hùng hậu. Trọng Thủy đứng đấy ngước nhìn chưa kịp nói thì bị hai vị Thủy thần gần đó chặn lại, hỏi:
– Tên kia, mày là ai? Đến đây làm gì? Có biết đây là chốn long cung uy nghiêm không?
Trọng Thủy mới nghe đã sợ, nhưng vì muốn được gặp vợ, chàng dũng cảm trả lời:
– Thưa hai vị, con là Trọng Thủy, vợ con là Mị Châu. Con đến đây vì được thần Kim Quy báo mộng rằng vợ con đang ở trong này.
Rồi chàng thành thật kể lại câu chuyện giữa chàng và Mị Châu, đúng lúc đó, Thủy Linh công chúa đang định đi ra khỏi Long cung, gặp chàng thì nói:
– Đây là bạn ta, các người hãy để chàng vào trong.
Trọng Thủy được thủy linh công chúa dẫn đến chỗ Mị Châu.
Trong long cung, cảnh thật đẹp. từng đàn cá bơi lội tung tăng, từng rặng san hô đủ màu sắc, đây đúng là chốn thần tiên. Bỗng, Trọng Thủy thấy mình đang ở một nơi rất đẹp, không gian yên tĩnh. Trước mắt chàng, xa xa là một người con gái với mái tóc dài mượt đang ngồi chơi đàn, tiếng đàn sao mà sầu, bi ai đến thế. Dựa vào hình dáng người con gái, dựa vào mái tóc, vào âm thanh của bản nhạc thì chàng không thể nhầm được. Đó là Mị Châu! Chàng kêu to tên vợ, chạy đến bên vợ, nhưng về phần Mị Châu, nàng sợ, hoảng hốt bỏ chạy. Nàng chạy trốn người đã phản bội mình, Trọng Thủy đuổi theo, bắt được nàng, Mị Châu vẫn im lặng, nhìn Trọng Thủy bằng ánh mắt căm thù, oán giận, lẫn chút nhớ nhung, Trọng Thủy nhận ra điều đó, chàng nói:
– Mị Châu, sao nàng chạy trốn ta, ta biết ta có lỗi, ta đã phải bội nàng, nhưng xin hãy hiểu cho ta, ta không còn lựa chọn nào khác. Là phận con, ta phải tuân lệnh cha, ta biết ta sai, nhưng nàng chớ hiểu nhầm ta không yêu nàng, đừng nghĩ rằng rằng ta cưới nàng chỉ vì âm mưu xâm lăng trong lòng ta luôn có nàng, ta nhận ra khi nàng không ở bên ta, ta không thể sống được xin hãy tha thứ cho ta.
Mặc dù Trọng Thủy đã xin lỗi chân thành nhưng Mị Châu không nói gì, nàng im lặng ngắm nhìn người chồng bấy lâu nay nàng mong nhớ, cũng là người đã phản bội nàng. Tim Mị Châu đau nhói, nàng không biết làm gì để vẹn đôi đường. tại sao ông trời lại nỡ làm vậy với nàng chứ, để nàng gặp Trọng Thủy, yêu chàng và giờ đây lại oán thù chàng, nhưng trái tim yếu đuối kia đã thuộc về Trọng Thủy mất rồi – Xin đừng im lặng với ta, nàng hãy nói gì, đánh ta, mắng ta cũng được, xin nàng im lặng, nàng làm thế ta buồn lắm, mọi chuyện xảy ra chỉ vì âm mưu của phụ thân ta. Thật tình ta không biết phải làm sao nữa, thôi thì mọi việc, mọi tội lỗi đều do ta gây ra, nhưng xin hãy trở về với ta.
– Trọng Thủy nói Mị Châu ngắm Trọng Thủy, người chàng ốm, xơ xác đi nhiều vì lo nghĩ, nàng cũng muốn quay lại với Trọng Thủy nhưng lại sợ. Mị Châu với hai hàng lệ đẫm tuôn trào, nói:
– Trọng Thủy chàng ơi, thiếp biết chàng nói thật, nam nhi đại trượng phu phải đặt sự nghiệp lên đầu. nhưng thiếp không thể, nếu quay lại, nỡ chàng lại phải bội thiếp thì sao? Bây giờ thiếp đã là tội đồ của dân tộc, nếu quay lại tội thiếp nặng gấp bội phần.
– Không đâu nàng ơi, ta thề sẽ không phản bội nàng đâu, nếu không giữ lời hứa ta sẽ bị ngũ mã phanh thây, thân xác không vẹn toàn đời đời bị khinh bỉ, suốt kiếp không siêu thoát. Đi, hãy đi cùng ta đến gặp cha nàng cùng thần Kim Quy, ta sẽ xin cho hai vị cho chúng ta được sống hạnh phúc bên nhau, dù trải qua bao nhiêu gian khổ đi chăng nữa, ta chỉ muốn sống cùng nàng tới bạc đầu. Đầu tiên, Mị Châu lưỡng lự song cũng đồng ý, hai người đến gặp vua cha. Tại đây, An Dương Vương cùng rùa vàng đang đánh cờ nói chuyện. Sau khi nghe kể về đôi trẻ, an dương vương không biết làm sao. Thấy vậy rùa vàng liền nói:
– Thôi thì hai con hãy đi cùng ta đến gặp ngọc hoàng, nếu người đồng ý hai con sẽ được như ý muốn, còn không thì Mị Châu chỉ có thể ở lại đây cùng cha nói rồi, Trọng Thủy, Mị Châu được rùa vàng dẫn đến gặp ngọc hoàng, sau khi nghe chuyện, hoàng hậu cảm động rơi lên, xin ngọc hoàng ân xá cho đôi trẻ, nhưng còn tội của hai người thì sao? Ngọc hoàng phán rằng:
– Thôi thì tình cảm của hai con vẫn còn lưu luyến nhưng tội thì không thể tha thứ, hai con hãy xuống hạ giới làm việc thiện ba năm, sau ba năm sẽ được đầu thai, sống chung với nhau, còn hạnh phúc hay không thì tùy thuộc vào hai con.
Hai người chưa kịp nói lời chia tay thì đã được ngọc hoàng đưa xuống hạ giới. Mị Châu đầu thai vào gia đình quan chức, nàng vẫn vậy, xinh đẹp nết na, nhưng trái tim của nàng giờ đây mạnh mẽ hơn, nàng hay giúp người,làm việc thiện… về phần Trọng Thủy, chàng trở thành một anh ngư dân chăm chỉ, tốt bụng.
Thời gian trôi qua thật nhanh, mới đó đã 3 năm, thời hạn để hai người gặp nhau đã đến.
Mị Châu gặp Trọng Thủy, hai người ôm lấy nhau khóc, nước mắt đã xóa đi hết những tội lỗi trước đây, hai người cưới nhau sống hạnh phúc quá đỗi.
Về phần triệu đà, vì con đi lâu mà không thấy về, nhớ con, hắn đổ bệnh mà chết.
Tình yêu mà Mị Châu và Trọng Thủy trao cho nhau vẫn còn sáng chói như ngọc trai được rửa trong giếng nước nơi trọng thuỷ thấy bóng vợ mình. Câu chuyện giữa hai ng thật cảm động, đó cũng là bài học cho chúng ta, hãy yêu thật lòng, hãy tin vào cuộc sống bạn nhé.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 3
Kể lại truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi
Những ngôi sao xa xôi là câu chuyện kể về ba cô gái: Thao, Phương Định và Nho trong cùng tổ trinh sát mặt đường. Công việc của họ là ngồi chờ trên cao điểm. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Công việc thật chẳng đơn giản chút nào. Rất gian khổ và gần kề ngay cái chết.
Họ chạy trên cao điểm cả ban ngày ngay bên cạnh những quả bom đang nằm chờ nổ. Nhưng họ anh dũng và vui vẻ. Họ đã quá quen với những vết thương, với đất bốc khói, không khí bàng hoàng và tiếng máy bay đang gầm lên ầm ĩ. Thần kinh lúc nào cũng căng lên như chão, tim đập nhanh, chân chạy mà biết chắc rằng xung quanh bom sắp nổ. Nhưng rồi khi xong việc, nhìn đoạn đường, họ thấy vui, thở phào nhẹ nhõm và sà ngay về cái căn hầm mát lạnh của mình. Đánh một hơi nước mát cho thật đã, xong thì tất cả nằm dài trên nền đất ẩm nghe ca nhạc hay có thể nghĩ lung tung.
Hôm ấy vào buổi trưa, không gian im ắng lạ. Phương Định ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Cô mê hát, có khi bịa ra cả những lời hát ngớ ngẩn lung tung. Định người Hà Nội và là một cô gái khá với hai bím tóc dày, mềm, cái cổ cao và đôi mắt đẹp. Nhiều anh lái xe quý mến thường gửi thư tán tỉnh cô.
Đang mơ màng suy nghĩ, Định bỗng giật mình. Có tiếng giục của Nho và chị Thao. Họ đã nhận ra tiếng máy bay trinh sát. Cả tổ đã rất quen với việc: cái sự im lặng là sự bất thường. Tiếng máy bay trinh sát và tiếng phản lực gầm gào theo sau.
– Sắp đấy! – Nho quay lưng lại, chụp cái mũ sắt lên đầu. Chị Thao vẫn thong thả nhai mấy chiếc bánh quy. Chị bình tĩnh đến phát bực nhưng lại hay sợ máu. Chị hay diêm dúa nhưng trong công việc, chị cương quyết và táo bạo vô cùng.
Chị Thao cầm cái thước trên tay Định, rồi nói: “Định ở nhà. Lần này nó bỏ ít, hai đứa đi cũng đủ”, rồi kéo tay Nho, vác xẻng lên vai đi ra cửa.
Định ở nhà trực điện thoại. Lòng cô nóng như lửa đốt. Xung quanh chỉ thấy khói bom mù mịt và tiếng cao xạ nã nhau chan chát. Địch tấn công dữ quá nhưng cũng may các anh cao xạ, thông tin và công binh đã kịp chi viện cho ba cô gái.
Nửa tiếng sau, chị Thao về, bình thản mệt lả và cáu kỉnh. Đại đội trưởng đã có được thông tin. Anh tế nhị cảm ơn ba cô gái.
Nho cũng về, bình thản và ướt sũng. Cô vừa tắm ở dưới suối lên, đẹp và mát mẻ như một que kem trắng. Cả tổ nghĩ ngợi một lúc rồi tối lại ra đường luôn. Họ đi phá bom trong cái không khí vắng lặng đến kinh người. Ba cô gái thao tác rất nhanh và thành thục. Hai mươi phút sau, một hồi còi, rồi hồi còi thứ hai nổi lên. Những tiếng bom nổ vang trời xé toang không gian yên lặng. Mùi thuốc bom buồn nôn, đất đá rơi lộp bộp, tan đi âm thầm trong những bụi cây.
Thao và Định đã định ra về. Nhưng bất chợt họ phát hiện ra Nho đã bị thương. Hầm của Nho bị sập khi cả hai quả bom của chị cùng phát nổ.
Định và Thao đưa Nho về. Vết thương không sâu lắm nhưng bom nổ gần nên Nho bị choáng. Họ tự lo chăm sóc cho cô gái vì không muốn làm phiền đơn vị. Lát sau, Nho đã thiếp đi.
Hai cô gái ngồi yên lặng nhìn nhau. Họ đang nuốt những giọt nước mắt vào trong vì lúc này phải giữ sao cho cứng cỏi. Chị Thao hát, những giai điệu sai và lạc nhịp. Nhưng cần phải hát. Hát để quên đi và để vững tin hơn.
Có một đám mây, một đám nữa rồi thêm đám nữa kéo đến cửa hang. Bầu trời đen đi và cơn dông ào đến đột ngột như một biến đổi bất thường trong trái tim con người vậy. Ở rừng mùa này hay thế. Trời mưa. Nhưng là mưa đá. Định nhận ra và thích thú cầm một viên đá nhỏ thả vào lòng bàn tay của Nho, vui thích và cuống cuồng.
Mưa tạnh rất nhanh. Định bỗng thẫn thờ và nuối tiếc. Nhưng cô không tiếc những viên đá nhỏ. Cô đang nhớ về mẹ, về những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, nhớ bà bán kem, nhớ con đường nhựa… Cơn mưa đã vô tình đã xoáy mạnh vào những kỷ niệm trong tâm hồn của cô gái xa quê.
Kể lại truyện ngắn Bến quê
Nhĩ vừa ngồi trên giường bệnh để vợ bón cho từng thìa thức ăn vừa nghĩ, thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi. Cái nóng ở trong phòng cùng ánh sáng loa lóa ở mặt sông Hồng đã không còn nữa.
Vòm trời như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, nơi một vùng phù sa lâu đời của sông Hồng đang phô ra trước khuôn cửa sổ gian gác nhà Nhĩ những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời, Nhĩ đã từng đi khắp đó đây vậy mà cái bờ bên kia sông Hồng tưởng như gần gũi nhưng lại xa lắc xa lơ bởi anh chưa đặt chân đến đó bao giờ.
Nhĩ khó nhọc nâng cánh tay lên ẩy cái bát miến trên tay của Liên ra. Anh chàng ngửa mặt như một đứa trẻ để cho thằng con lau mặt. Chờ khi đứa con trai đã bưng thau nước xuống dưới nhà, anh hỏi vợ:
– Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không?
Liên giả vờ không nghe chồng nói. Anh lại tiếp:
– Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?
Liên vẫn không đáp. Chị biết chồng đang nghĩ gì. Chị đưa những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve chồng, rồi an ủi:
– Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được.
Nhĩ thấy thương Liên. Cả đời chị đã vì anh mà khổ. Anh thương chị lắm nhưng chẳng biết nói sao.
Ngừng một lát, Liên lại động viên anh:
– Anh cứ tập tành và uống thuốc. Sang tháng mười, nhất định anh sẽ đi lại được.
Nhĩ thoáng chốc quên đi bệnh tật. Anh bị cuốn vào những câu nói bông đùa của Liên. Nhưng rồi, Liên đặt bàn tay vào sau phiến lưng đã có nhiều mảng thịt vừa chai cứng vừa lở loét của Nhĩ. Thế là cái cảm giác mệt mỏi vì bệnh tật lại trở về với anh.
Liên đã đi ra ngoài và dọn dẹp. Chị hãm thuốc cho chồng xong rồi đi chợ. Chờ cho vợ đi hẳn xuống dưới nhà rồi, Nhĩ mới gọi cậu con trai vào và nói:
– Đã bao giờ con sang bên kia chưa? Nhĩ vừa nói vừa ngước nhìn ra ngoài cửa sổ.
Cậu con trai dường như nghe chưa rõ bèn hỏi lại:
– Sang đâu hả bố?
– Bên kia sông ấy!
Tuấn đáp vẻ hững hờ:
– Chưa…
Nhĩ tập trung hết sức còn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời anh:
– Bây giờ con sang bên kia sông hộ bố.
– Để làm gì ạ?
– Chẳng để làm gì cả. Nhĩ ngượng nghịu nhận ra sự kỳ quặc trong ý nghĩ của mình. Nhưng anh vẫn tiếp:
– Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi loanh quanh đâu đó hoặc vào một hàng quán nào đó mua cho cha cái bánh rồi về.
Cậu con trai miễn cưỡng mặc quần áo, đội chiếc mũ nan rộng vành rồi ra đi.
Vừa nghe Tuấn bước xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh mệt lử và đau nhức. Anh chỉ muốn có ai đỡ cho để nằm xuống. Nghe tiếng bước chân ở bên kia tường, Nhĩ cúi xuống thở hổn hển để lấy lại sức rồi cất tiếng gọi yếu ớt: “Huệ ơi!”.
Cô bé nhà bên chạy sang. Và dường như đã rất quen, cô lễ phép hỏi: “Bác cần nằm xuống phải không ạ?”.
– Ừ, ừ… chào cháu – Nhĩ trả lời.
Cô bé chưa vội đỡ Nhĩ. Nó chạy ra ngoài gọi mấy đứa bạn vào và rồi cả bọn cùng giúp Nhĩ nằm ra ngoài tấm nệm. Chúng giúp anh đặt một bàn tay lên bậu cửa sổ và chèn một đống gối sau lưng. Anh thấy hạnh phúc và càng yêu hơn lũ trẻ.
Ngoài sát ngay sau khuôn cửa sổ, Nhĩ nhìn thấy ở bờ bên kia một cánh buồm vừa bắt gió. Sát bên bờ của dải đất lở bên này, một đám đông đợi đò đang đứng nhìn sang nhưng Nhĩ cứ nhìn mãi mà không thấy bóng thằng con trai đâu cả.
Thì ra thằng con anh đang dán mắt vào một bàn cờ thế. Ngày xưa anh cũng từng mê cờ thế. Và bây giờ, Nhĩ nghĩ một cách vô cùng buồn bã: Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái vòng vèo quanh co. Nhĩ chợt nhớ về cái ngày anh mới cưới Liên. Một cô gái nhà quê nay đã trở thành một người đàn bà thành thị. Tuy vậy cũng như cánh bãi bồi bên sông, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên nét tảo tần và chịu đựng. Và chính nhờ những điều này mà sau bao ngày bôn tẩu, Nhĩ đã tìm thấy một nơi nương tựa ấy chính là cái gia đình bé nhỏ này.
Con đò đã sang quá nửa sông. Và chính giữa lúc Nhĩ đang tưởng tượng mình đội chiếc mũ nan và sang sông như một nhà thám hiểm thì có tiếng người vào. Anh quay lại. Đó là ông cụ giáo Khuyến – người ngày nào cũng ghé qua hỏi thăm sức khỏe của anh. Hai người đang nói chuyện thì bỗng ông hàng xóm hốt hoảng nhận ra mặt mũi Nhĩ đỏ rưng rưng, hai mắt long lanh, hai bàn tay bấu chặt vào bậu cửa và run rẩy. Anh đang cố thu nhặt hết chút sức lực cuối cùng để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay làm ra vẻ ra hiệu cho một người nào ngoài đó.
Ngay lúc bấy giờ, chiếc đò ngang mỗi ngày một chuyến chở khách qua lại hai bên sông Hồng vừa chạm mũ vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 4
Mẫu 1
Tôi là đứa trẻ bất hạnh vì không có bố. Tuy lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ nhưng tôi vẫn thấy thiếu thốn tình cảm của một người bố. Điều mà tôi sợ nhất là ngày ngày đến trường, lũ trẻ nghịch ngợm cứ quây quanh tôi mà la toáng lên: “Ê, ê! Thằng con hoang không có bố!”.
Hồi ấy tôi khoảng bảy hoặc tám tuổi, người xanh xao, gầy gò và tính cách thì nhút nhát. Điệu bộ của tôi vụng về ngượng nghịu đến phát tội. Tan trường về nhà, tai tôi nghe đầy lời đám trẻ xầm xì không ngừng. Chúng ranh mãnh theo dõi từng bước của tôi. Bằng trò trêu ghẹo độc ác vô tội vạ của con nít, chúng chặn trước chặn sau, bao vây dồn tôi vào giữa. Tôi chỉ biết đứng chịu trận, vừa ngạc nhiên, vừa hoang mang sợ hãi chẳng biết chúng muốn gì. Mặc dù mẹ dặn là tránh xa chúng nó ra nhưng đã vài lần, tôi không thể kìm được cơn giận dữ, lao vào đánh đấm chúng túi bụi. Đương nhiên là tôi bị chúng tẩn cho ra trò. Tôi về mách mẹ. Mẹ ôm tôi vào lòng vuốt ve và an ủi nhưng rốt cuộc thì cuối cùng cả hai mẹ con chỉ biết cùng khóc.
Một hôm, tình trạng ấy lại tái diễn. Tôi nổi giận, vừa túm tóc tên nhóc vừa giơ chân đá. Tôi còn nhào đến, dữ tợn cắn vào má tên nhóc một phát, mở màn trận đấm đá tay đôi ác liệt, giữa đám giặc con đứng vòng ngoài vỗ tay reo hò. Tàn cuộc, tôi u đầu sứt trán, tay chân quần áo đầy đất cát. Một thằng lõi còn quát tôi:
– Về mách với bố mày đi!
Tim tôi đau nhói. Chúng nó đông hơn, chỉ lấy thịt đè người cũng đủ chết và tôi chẳng thể mở mồm biện minh được gì. Thật sự tôi chẳng có bố. Tôi nghẹn ngào, nhưng vì niềm kiêu hãnh, tôi cắn răng không khóc trước mặt lũ ranh. Tôi cố nén dòng nước mắt đang trào lên, nhưng niềm tức tưởi òa thành tiếng nấc không ngừng. Lũ ranh vỡ trận cười thỏa thích. Chúng tay nắm tay nhau, reo hò nhảy múa quanh tôi bằng điệp khúc:
“Thằng không bố! Ê, thằng không bố”. Tôi buồn bã bỏ học, lang thang ra bờ sông vắng. Nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, bỗng dưng tôi muốn chết… Tôi muốn dìm mình xuống sông vì không có bố. Tôi tuyệt vọng, chạm chân vào nước, đăm chiêu nhìn dòng sông lững lờ trôi. Vài con cá nhảy lên mặt nước xanh để đớp ruồi. Tôi nín khóc, thích thú nhìn cảnh ngộ nghĩnh đang diễn trước mắt. Tuy nhiên, giữa lúc giông bão trong lòng tôi tạm lắng, như ngọn gió thình lình táp mạnh vào thân cây rồi ào đi, nó lại nghe niềm đau cào cấu. “Tôi muốn buông mình cho chết vì làm con không bố”. Tôi định nhảy ùm xuống, mặc cho dòng nước cuốn trôi đến đâu thì đến, chết lại càng hay! Lũ trẻ sẽ chẳng còn trêu chọc tôi được nữa và nỗi khổ tâm của tôi sẽ hoàn toàn chấm dứt. Tôi chìm ngập trong cảm xúc đau thương. Gối đầu lên đôi bàn tay, tôi nằm ngửa nhìn trời. Trên cao là bầu trời xanh cao vời vợi. Những đám mây đủ mọi hình thù lãng đãng trôi. Ô kìa! Rõ ràng ba đám mây trắng ở sát bên nhau trông giống bố mẹ cùng dắt tay đứa con thơ. Tôi chợt bật khóc nức nở và gọi thật to: “Bố ơi! Bố ở đâu? Sao bố không về với con?”. Không một lời đáp lại. Chỉ có tiếng gió thổi xào xạc trong đám sậy ven sông. Tôi úp mặt xuống cỏ ướt, dần dần tỉnh lại. Rồi tôi nghĩ đến mẹ, Mẹ Blăng-sốt yêu quý của tôi! Nếu tôi không về nhà đúng giờ, mẹ sẽ lo lắng, sốt ruột biết chừng nào! Nếu tôi chết, chắc mẹ sẽ khóc hết nước mắt, có khi mẹ cũng sẽ chết theo tôi.
Trời thật ấm, ánh hồng trải mình trên cỏ, và dòng nước trong như gương. Tôi tận hưởng giây phút êm ả, đoạn mệt nhoài buông mình mơ màng trên thảm cỏ. Có con nhái xanh từ đâu nhảy dưới chân tôi. Tôi chồm người chụp lấy, nhưng con nhái vụt mất. Tôi rượt theo đến lần thứ tư mới bắt được. Nhìn con nhái cố sức ngọ nguậy trên tay để trốn thoát, tôi bật cười. Con nhái dồn sức xuống đôi chân sau, cố bật mạnh lên như chàng lực sĩ đang cử tạ. Tròng mở to như muôn lọt khỏi vòng mắt màu vàng viền bên ngoài và hai chân trước chòi đạp như thể hai tay đang quơ ra cầu cứu. Hình ảnh ấy khiến tôi nhớ món đồ chơi của mình. Món đồ chơi được ghép bằng những mảnh gỗ nhỏ đóng từng đoạn chồng lên nhau. Trên ấy là hàng lính tí hon, thao tác tùy theo mảnh gỗ chuyển động. Nghĩ đến đây, tôi nhớ nhà, nhớ mẹ và tủi thân bật khóc. Tay chân tôi run rẩy, tôi buông người quỳ xuống và cầu nguyện như hằng đêm trước khi đi ngủ. Chưa cầu nguyện xong, điều đau khổ lại trào dâng trong lòng khiến tôi òa khóc lớn. Bất ngờ, có bàn tay ai nặng trịch đặt lên vai nó. Theo đó là giọng nói trầm trầm:
– Bé con ơi, việc gì khiến con buồn đến thế…
Tôi quay lại. Một người thợ với hàm râu đen và mái tóc dợn từng sợi, đang chăm chú nhìn tôi. Tôi tức tưởi:
– Tụi nó đánh con, vì con không có bố.
Người thợ mỉm cười:
– Sao kỳ cục vậy?… Ai cũng có bố mà con.
Tôi đau thắt người, trả lời.
– Nhưng con không có.
Nghe câu nói, người thợ bối rối và bảo tôi:
– Nín khóc đi con. Chú sẽ dắt con về với mẹ. Mẹ con sẽ chỉ cho biết bố ở đâu.
Về đến trước căn nhà nhỏ xinh xắn. Tôi gọi to:
– Mẹ ơi, mẹ!
– Thưa cô, tôi gặp cháu đi lạc ngoài bến sông…
Tôi nhào ôm cổ mẹ, mếu máo.
– Không phải mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông. Tại tụi nó đánh con… Tụi nó đánh con vì con không có bố.
Mặt mẹ tôi ửng đỏ, ôm vội con vào lòng mà nước mắt tuôn trên má. Tôi chạy đến chân chân người thợ nói:
– Chú làm bố con được không…?
Ngột ngạt bao trùm, không ai nói một lời. Tôi liền tuyên bố:
– Nếu chú không chịu làm bố của con, con sẽ nhảy xuống sông.
– Được chứ sao không, nhóc con.
Tôi làm quen:
– Chú tên gì để có ai hỏi thì con nói?
– Phi-líp!
Tôi ghi nhớ và quả quyết nói với chú:
– Bây giờ chú là bố của con!
Còn gì hay hơn thế nữa? Tôi sung sướng ôm ghì lấy cổ chú Phi-líp, dụi mặt vào bé ngực vạm vỡ của chó.
Ngày hôm sau đi học, lũ bạn lại xúm vào trêu chọc tôi. Thay vì uất ức hay giận dữ, tôi kiêu hãnh đáp: “Bố tớ là thợ rèn Phi-líp!”. Lũ bạn nhao nhao: “Không đúng! Không đúng! Mày phải có một ông bố đàng hoàng như chúng tao cơ!”. Tôi không hiểu thế nào là một ông bố đàng hoàng nên đành nín nhịn, chờ tan buổi học. Lúc đi ngang qua lò rèn, tôi rẽ vào gặp bố Phi-líp của tôi, kể mọi chuyện cho bé nghe. Tôi thấy vẻ mặt bố trầm ngâm hẳn. Bố lẩm bẩm: “Thôi được! Thôi được! Con hãy về nhà đi! Con sẽ có bố, ông bố thực sự, ông bố đàng hoàng của con!”.
Sau đó, một điều tuyệt vời xảy ra: Bố Phi-líp đến gặp mẹ tôi, ngỏ lời cầu hôn với mẹ Blăng-sốt của tôi. Bố bảo tôi cần có bố thật sự, cần người bảo vệ. Bố Phi-líp đã đem lại cơ hội cho mẹ tôi được làm vợ một người đàn ông tử tế. Khỏi phải nói tôi vui mừng đến chừng nào! Thế là từ nay, đố đứa nào dám ức hiếp tôi nữa. Bố Phi-líp mạnh mẽ và tốt bụng sẽ là chỗ dựa chắc chắn cho cuộc đời tôi. Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, cứ hết nhìn tôi lại nhìn Phi-líp. Rồi mẹ lấy chiếc khăn choàng trên vai, lau nước mắt.
Hôm sau đến trường, khi cả lớp chuẩn bị đọc bài thì tôi đứng lên. Mặt tái xanh và môi run run, nhưng tôi nói rõ ràng từng chữ:
– Bố tao… bố tao là Phi-líp, làm thợ rèn. Đứa nào láng cháng, bố tao sẽ kéo đứt tai.
Không một ai trong đám trẻ dám mở miệng cười. Người thợ rèn Phi-líp nổi tiếng chúng đều biết, và đứa nào cũng đều hãnh diện có người cha oai phong như thế. Bố Phi-líp đã đến ở hẳn với hai mẹ con tôi. Tôi rất thích đi dạo dọc bờ sông mỗi chiều để tôi âu yếm nói: “Bố Phi-líp của con! Con yêu bố lắm!”
Mẫu 2
Quá khứ của tôi đã có những ngày buồn đau và tuyệt vọng. Nhưng nếu không có những ngày như thế, có lẽ tôi sẽ không cảm thấy hạnh phúc tuyệt vời như chính lúc này đây.
Câu chuyện của tôi xảy ra vào ngày đầu tiên khi tôi bước chân vào lớp một. Hôm ấy tôi mừng vui lắm và thật háo hức vô cùng. Tôi đến trường vui tươi và phấn khởi. Thế nhưng khi tôi vừa chực bước chân vào lớp thì một đám bạn xúm đến vây quanh lấy chân tôi. Một đứa trong đám bắt đầu ném vào tai tôi bao lời chua chát mà cho đến bây giờ tôi vẫn chẳng thể nào quên. Tôi bực giật nhưng đành câm lặng bởi đúng là lúc ấy… tôi không có bố. Tôi bật khóc, vậy mà lũ bạn tôi vẫn chưa chịu thôi cái trò chơi quái ác. Buổi học đầu tiên với bao mong đợi đã không thành. Tôi buồn nản và vô cùng thất vọng bỏ ra phía bờ sông.
Trời ấm áp và dễ chịu. Ánh mặt trời êm đềm sưởi ấm bãi cỏ. Nước lấp lánh như gương. Tôi muốn nằm ngay ra đó và ngủ đi một giấc nhưng lại không sao ngủ được. Không thể nào quên được những câu nói vừa qua. Đầu tôi choáng váng, chân tay mệt mỏi rã rời. Tôi muốn chìm ngay xuống dưới lòng sông để quên đi tất cả. Nhưng không hiểu sao tôi lại trù trừ không muốn làm ngay. Mắt tôi rệu rã nhìn theo những đám bọt trên sông.
Đang chán ngán, tôi bỗng thấy một chú nhái con màu xanh lục nhảy nhót dưới chân. Tôi vung tay tóm lấy mà không được. Tôi đuổi theo, vồ hụt ba lần liền rồi mới tóm được hai chân sau của nó. Tôi bật cười nhìn con vật cố giãy giụa để thoát thân. Nó thu mình lại trên đôi cẳng lớn rồi bật phắt lên, đột ngột duỗi cẳng, ngay đơ như hai thanh gỗ; trong lúc giương tròn con mắt có vành vàng, nó dùng hai chân trước đập vào khoảng không, huơ lên như hai bàn tay. Trò nghịch với chú nhái bỗng gợi cho tôi nhớ về một đồ chơi thuở nhỏ. Và thế là tự nhiên tôi nghĩ đến nhà, đến mẹ. Tôi thấy buồn vô cùng và lại khóc. Người tôi rung lên, tôi sợ, quỳ xung và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ nhưng không đọc hết. Nỗi buồn càng lúc càng giăng kín lòng tôi. Tôi chẳng còn nghĩ được điều gì nữa, chẳng nhìn thấy cái gì nữa. Tôi chỉ ngồi ôm mặt và cứ nức nở mãi không thôi.
Thế rồi, bỗng nhiên tôi giật nảy mình. Một bàn tay chắc nịch của ai đó vừa đặt lên vai tôi và tai tôi nghe những lời nói ồm ồm nhưng đầy chia sẻ:
– Có điều gì làm cháu buồn phiền đến thế, cháu ơi?
Tôi quay lại. Một bác công nhân cao lớn, râu tóc đen, quăn, đang nhìn tôi bằng ánh mắt nhân hậu vô cùng. Tôi trả lời, giọng nghẹn ngào trong khi mắt vẫn còn ươn ướt:
– Chúng nó đánh cháu… vì… cháu… cháu… không có bố… không có bố.
– Sao thế – bác ta mỉm cười bảo – ai mà chẳng có bố.
Tôi nói tiếp (một cách khó khăn) trong tiếng nấc:
– Cháu… cháu không có bố.
Tôi nhận ra bác công nhân bỗng nghiêm mặt lại. Và hình như bác đã nhận ra tôi. Bác nói:
– Thôi nào, đừng buồn nữa, cháu ơi, và về nhà với mẹ cháu, với bác đi. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố.
Ngay lúc ấy, tôi không biết lời nói kia có thật hay không. Thế nhưng trên đường về, lòng tôi tràn đầy hy vọng.
– Thưa bác, đây rồi! Nhà cháu ở đây – tôi nói:
Mẹ tôi mở cửa bước ra khi bác công nhân đang mải ngắm ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng và hết sức sạch sẽ của mẹ con tôi. Thấy mẹ tôi, bác e dè, cầm mũ một bên tay và nói:
– Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông.
Không để cho mẹ kịp trả lời, tôi bỗng ôm chầm lấy mẹ rồi òa khóc:
– Không, mẹ ơi, con đã muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố.
Đôi má của mẹ tôi cứ thế đỏ bừng lên và đôi mắt gợi một nỗi buồn sâu thẳm. Mẹ ôm tôi vào lòng, hôn lấy hôn để trong nghẹn ngào nước mắt khiến tôi càng nức nở hơn. Nhưng rồi như vừa chợt nghĩ đến một điều gì trước đó, tôi bỗng chạy đến bên bác công nhân và nói:
– Bác có muốn làm bố cháu không?
Tôi hồi hộp đợi chờ, trong khi ấy mẹ tôi ngã vào tường và hai tay ôm ngực. Không thấy trả lời, tôi lại nói, mạnh mẽ và dứt khoát:
– Nếu bác không muốn, cháu sẽ quay trở lại nhảy xuống sông chết đuối.
Đến đây, bác công nhân mới nở nụ cười rồi đáp:
– Có chứ, bác muốn chứ.
Tôi ngây thơ và sung sướng vô cùng. Tôi hỏi tiếp ngay:
– Thế bác tên gì để cháu còn trả lời chúng nó khi chúng nó muốn biết tên của bác?
– Phi-líp – Người đàn ông đáp.
Tôi im lặng một giây để ghi nhớ cái tên ấy vào đầu. Rồi hết cả buồn, tôi vươn hai cánh tay ra nói:
– Thế nhé! Bác Phi-líp, bác là bố cháu.
Tôi sung sướng quá! Bác Phi-líp bước đến nhấc bổng tôi lên, hôn vào hai má tôi, rồi bác sải từng bước dài bỏ đi vội vã.
Sau hôm ấy, tôi lại đến trường. Vừa bước vào cửa lớp, tôi lại nghe một tiếng cười ác ý. Buổi học hôm ấy qua nhanh, lúc tan học, đứa bạn hôm trước lại định trêu chọc tôi. Nhưng tôi lớn tiếng quát vào mặt nó:
– Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp.
Khắp xung quanh tôi lại bật lên những tiếng la hét vô cùng thích thú:
– Phi-líp gì?… Phi-líp nào?… Phi-líp cái gì?… Mày lấy đâu ra Phi-líp của mày thế?
Nhưng tôi không trả lời. Tôi một mực tin tưởng và đưa con mắt thách thức bọn kia. Cũng may đúng lúc ấy thầy giáo đến. Bọn bạn kia nhìn thấy thầy bèn giải tán. Còn tôi, tôi cảm ơn thầy rồi cũng ra về. Nhưng khác hẳn mọi hôm, hôm nay tôi hãnh diện và vui mừng lắm.
Câu chuyện của tôi là thế. Bây giờ thì bố Phi-líp đã về ở với mẹ con tôi và lũ bạn cũng không còn trêu tôi nữa. Ngẫm lại, những chuyện ngày xưa thật đáng buồn. Thế nhưng sau tất cả tôi phải cảm ơn, cảm ơn rất nhiều bố Phi-líp của tôi.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 5
Mẫu 1
Sau khi Mị Châu chết, Trọng Thuỷ ngày đêm buồn rầu, day dứt. Không có cách gì làm nguôi ngoai nỗi nhớ vợ. Trọng Thuỷ bèn nhảy xuống giếng để tìm đường đến thuỷ cung gặp lại Mị Châu.
Thuỷ cung là một thế giới long lanh, trong suốt. Những tầng san hô lóng lánh sắc màu. Đám rong biển đu đưa mềm mại như những dải dụa. Cung điện Long Vương nguy nga, tráng lệ. Đám hầu cận Tôm, ốc bơi đi bơi lại rất đông, những nàng tiên cá cất giọng hát du dương, ngân nga khắp không gian.
Đang ngơ ngẩn ngắm cảnh, Trọng Thuỷ phải dạt mình sang bên cạnh đám rong rêu để nhường đường cho kiệu công chúa. Công chúa ngồi trong kiệu dung nhan mĩ nhiều nhưng gương mặt vương vấn nỗi buồn sầu. Đặc biệt trên đầu nàng dính rất nhiều những hạt ngọc trai óng ánh. Trọng Thuỷ chợt nhận ra đó là Mị Châu và chàng vội đi theo đến cung điện nàng ở xin được gặp.
Trọng Thuỷ được gặp lại Mị Châu thì vui mừng khôn xiết. Bao nhiêu những nhớ mong, yêu thương bỗng vỡ oà ra. Chàng chạy đến định ôm chầm lấy Mị Châu Mị Châu trong lòng cũng thấy xao xuyến, nhưng những oán trách, giận hờn lớn hơn, nàng bèn lạnh lùng gạt Trọng Thuỷ ra.
– Chàng vẫn còn dám đến gặp ta nữa ư? Ai là người đã lợi dụng sự cả tin, ngây thơ của ta để chiếm lấy nỏ thần? Ai là kẻ giả vờ yêu thương, lo lắng, dặn dò ta rắc lông ngỗng trên đường đi để rồi đuổi theo đẩy cha ta đến bờ biển sâu? Ai là người khiến nước Âu Lạc chìm đắm trong chiến tranh?
Trọng Thuỷ cúi đầu lặng im. Lòng chàng trào nỗi ân hận, day dứt khôn nguôi. Mãi chàng mới cất nên lời:
– Xin nàng hãy hiểu cho ta. Ta biết làm thế nào giữa một bên là lệnh của cha và một bên là tình yêu với nàng. Ta biết ta là kẻ bội bạc đối với nàng. Ta biết ta đáng bị trừng phạt rồi. Và ta cũng đã phải gánh chịu biết bao đau khổ khi nàng rời xa. Ngày đêm ta thương nhớ nàng khôn nguôi. Xin nàng hãy tha thứ cho ta và trở lại với ta.
– Thiếp mừng vì chàng đã nhận ra lỗi lầm. Nhưng thiếp không thể nào đắc tội với cha một lần nữa. Thiếp không thể nào đắc tội được với nhân dân nước Âu Lạc.
Trọng Thuỷ đau khổ giã từ nhưng những hàng nước mắt cứ tuôn rơi, tuôn rơi như mưa. Trong tâm trí chàng, hình ảnh của Triệu Đà, của đất nước Âu Lạc, của chiếc nỏ thần cứ mờ dần, mờ dần. Chỉ còn đậm nét mồn một là hình ảnh Mị Châu với tâm tình khắc khoải khôn nguôi. Và cùng với nhịp đập trái tim thổn thức, người chàng cứ tan ra, tan ra… Chàng hoá thân thành những bọt nước biển mang hình giọt lệ.
Những bọt nước biển mang hình giọt lệ ấy cứ ngao du khắp đại dương mênh mông để được gần Mị Châu, để được nằm giữa biển lớn ngàn năm hát mãi.
Mẫu 2
Sau khi vua An Dương Vương cùng Mị Châu chạy đến bờ biển và Rùa Vàng hiện lên nói Mị Châu chính là giặc, nhà vua đã chém Mị Châu. An Dương Vương được Rùa Vàng rẽ đường nước xuống biển. Trên đường đuổi theo nhà vua, Trọng Thủy theo lông ngỗng đến bờ biển liền nhìn thấy xác Mị Châu. Chàng đau đớn, hối hận và đem xác nàng về an táng. Từ đó, Trọng Thủy nhớ Mị Châu mà luôn nghĩ đến nàng. Chàng ân hận trước hành động của mình nên đêm đến nhìn xuống đáy giếng thấy hình bóng Mị Châu, Trọng Thủy nhảy xuống giếng tự vẫn.
Xuống đáy giếng, chàng không ngờ mình không chết mà lạc xuống một thế giới khác. Ở đây, chàng thấy thật nguy nga, lộng lẫy, có những nàng tiên cá đang vui đùa, khắp nơi chỉ thấy trang trí đồ bằng vàng, bằng bạc. Trọng Thủy đoán đây là thủy cung dưới biển. Chàng đi lại khắp nơi, vừa đi chàng vừa nói:
– Mị Châu nàng ơi! Nàng ở đâu? Rõ ràng ta vừa thấy nàng mà!
Nhưng chàng càng đi, thì càng đi sâu hơn. Chàng buồn tủi, vừa đi vừa khóc trong nỗi tuyệt vọng. Trọng Thủy chỉ mong được gặp lại Mị Châu. Trong đầu chàng bây giờ suy nghĩ chỉ cần gặp được Mị Châu, chàng nguyện làm tất cả những gì cô muốn. Long Vương lúc này qua tấm gương chiếu đã nhìn thấy Trọng Thủy. Long Vương hỏi Mị Châu:
– Cô có muốn gặp hắn không?
Mị Châu buồn rầu đáp:
– Tôi không! Tôi không muốn gặp hắn.
Long Vương nói với Mị Châu:
– Ta nghĩ, giữa hai người cần một lần giãi bày với nhau. Ta thấy hắn ta rất muốn gặp cô, chắc có điều cần nói. Cô hãy cho hắn cơ hội đi.
Mị Châu im lặng một hồi và gật đầu đồng ý. Mị Châu đi đến chỗ Trọng Thủy đang đứng và nói:
– Sao chàng ở đây? Chàng đến đây làm gì?
Trọng Thủy nghẹn ngào đáp:
– Mị Châu! Có phải nàng không? Trọng Thủy vừa nói vừa ôm chầm lấy nàng. Ta thật lòng xin lỗi nàng. Ta thật sự rất ân hận trước việc mình làm. Vì ta, nàng mới ra nông nỗi này.
Mị Châu đáp:
– Trước đó, do ta quá ngốc! Ta đã tin chàng, tin tình yêu và tình nghĩa vợ chồng. Ta tưởng rằng những lời chàng nói trước lúc ra đi đó là vì chàng yêu ta. Ta không ngờ, tình yêu đó khiến ta trở thành kẻ hại nước, hại gia đình. Giờ đây, ta không còn ai nữa.
Trọng Thủy nghẹn lòng nói:
– Mị Châu, xin nàng hãy hiểu cho ta. Ta đã nghe lời cha ở quê nhà. Vốn dĩ, ta lấy nàng chỉ vì muốn biết bí quyết nỏ thần, để cha ta có thể đánh bại được nước của nàng. Nhưng ta cũng không ngờ, trong thời gian được ở bên nàng, ta đã yêu nàng. Xin nàng hãy tha thứ cho ta..
Mị Châu khóc nghẹn lên và nói:
– Không! Ta không thể tha thứ cho chàng. Ta không muốn gặp chàng một lần nữa.
Nói rồi, Mị Châu ra đi. Trọng Thủy phía sau khóc ròng nhìn nàng dần đi xa hơn.
Nguồn: Tổng Hợp