Tổng hợp các bài dàn ý phân tích tác giả và thơ” Hầu trời” chi tiết, hay và bám sát nội dung sách giáo khoa nhất. Gíup các em cảm nhận được tâm hồn lãng mạn độc đáo của thi sĩ Tản Đà và những dấu hiệu đổi mới hiện đại của thơ ca Việt Nam.
Dàn ý phân tích “Hầu trời (Tản Đà)” số 1
I. Tác giả
1. Tiểu dẫn
– Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu
– Quê hương: Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây), mồ côi cha từ nhỏ, già đình nghèo khó.
– Năm 1913 ông làm báo tại Vĩnh Yên.
– Năm 1915 ông lấy vợ
– Năm 1916 ông chính thức chọn con đường viết văn, làm báo chuyên nghiệp.
– Năm 1926 ông cho ra đời An Nam tạp chí.
– Con người:
+ Sinh ra và Lớn lên trong buổi giao thời.
+ Là “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh)
+ Học chữ hán từ nhỏ nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ…
2. Sự nghiệp văn học
a. Di sản văn học
– Thơ: Khối tình con người I, II (1916, 1918)
– Truyện: Giấc mộng con người I, II (1916, 1932)
– Tự truyện: Giấc mộng lớn (1928)
– Thơ và văn xuôi: Còn chơi (1921).
b. Phong cách thơ
– Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái.
– Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
– Ông có lối đi riêng vừa tìm về ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc vừa có những sáng tạo độc đáo tài hoa
3. Vị trí và tầm ảnh hưởng
– Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà.
– Nghe tin Tản Đà mất, làng văn nghệ trong nước trở nên xôn xao. Một loạt các bài báo tưởng niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó:
+ Khái Hưng có “Cái duyên của Tản Đà”, “Vài chuyện vui về thi sĩ Tản Đà”.
+ Xuân Diệu có “Công của thi sĩ Tản Đà”
+ Lâm Tuyền Khách có “Một tháng với Tản Đà”,“Đời làm báo của Tản Đà”
+ Lưu Trọng Lư có “Bây giờ, khi nắp quan tài đã đậy lại”
+ Phan Khôi có “Tôi với Tản Đà thi sỹ”
+ Nguyễn Tuân có “Tản Đà, một kiếm khách”
Những bài viết này thể hiện sự kính trọng, quý mến đối với con người Tản Đà.
– Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân cho in tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” nổi tiếng, đã cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế “chủ suý” của hội tao đàn, ở những trang đầu tiên, như một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước vào một giai đoạn tươi đẹp mới.
– Ông là người sáng lập ra tờ báo chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam: tờ “An Nam tạp chí”, nó gắn liền với sự nghiệp làm báo của Tản Đà.
II. Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a) Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
– Trong tập “Còn chơi” (1921)
– Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…
b) Bố cục
– Phần 1: Giới thiệu về câu truyện, từ “đêm qua … lạ lùng”
– Phần 2: “chủ tiên … chợ trời” Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
– Phần 3: “Trời lại phê cho… sương tuyết” thi nhân trò chuyện với trời.
c. Nội dung
Bài thơ bộc lộ cái tôi cá nhân ngông cuồng, phóng túng và y thức cao về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Giới thiệu câu chuyện
– Câu chuyện xảy ra vào “đêm qua”: Gợi khoảnh khắc yên tĩnh, vắng lặng.
– Câu chuyện kể về một giấc mơ được lên cõi tiên (câu 4).
– Nhân vật trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng “chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng”
– Biện pháp nghệ thuật: nhấn mạnh tâm trạng cảm xúc của thi nhân.
+ Điệp từ ‘thật”: Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng.
+ Câu cảm thán dường như lật lại vấn đề: mơ và tỉnh, hư mà như thực.
+ Câu khẳng định
– Cách giới thiệu trên đã gợi cho người đọc về tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái “hồn cốt” trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thực. Cách vào vấn đề gây được mối nghi vấn kích thích trí tò mò ở người đọc, tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện.
=> Cảm nhận được “cái tôi” cá nhân đầy chất lãng mạn, bay bổng pha lẫn nét “ngông” trong thơ thi nhân. Với cách vào chuyện độc đáo có duyên đã làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên hấp dẫn lôi cuốn.
b. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
* Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
– Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc:
“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
– Rất đắc ý nên càng đọc càng có cảm xúc nên đọc rất hay: “văn dài hơi tốt ran cung mây”.
– Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình:
“Hai quyển khối tình văn lý thuyết
Hai khối tình còn là văn chơi
Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”
– Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài năng. Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
* Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả
– Thái độ của trời: tán dương, khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
– Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
– Nghệ thuật so sánh đã làm nổi bật vẻ đẹp từ ngôn ngữ thơ đến chí khí, tâm hồn của thi sĩ.
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
c. Thi nhân trò chuyện với trời
* Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình
– Thi nhân kể họ tên, quê quán:
“ Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam”
– Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.
– Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cỏi trời để thỏa nguyện nỗi lòng.
“Bẩm trời hoàn cảnh con thực nghèo khó”
“Trần gian thước đất cũng không có”
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo”
“Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”
Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
* Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân
– Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.
+ Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát ly cuộc sống.
+ Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.
+ Đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
– Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời
=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít.
* Cá tính và tâm hồn thi sĩ
– Một con người có cái tính rất ngông: hạ giới khinh rẻ tài năng Tản Đà lên tận trời cao để thể hiện.
– Một con người ý về cá nhân rất cao, dám tự mình khen mình. Đây không phải là sự tự kiêu mà là cá nhân tự ý thức được tài năng thực sự của mình.
– Giọng kể hào hứng, phấn chấn, tự hào.
d. Giá trị nội dung
– Bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, kiêu bạc, hào hoa và cái tôi cô đơn, bế tắc trước thời cuộc.
– Có thể thấy nhà thơ đã tìm được hướng đi đúng đắn để khẳng định mình.
e. Gía trị nghệ thuật
– Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, không cách điệu, ước lệ.
– Tác giả vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính.
– Cảm xúc bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do…
Một số nhận định về tác giả, tác phẩm
1. Nguyễn Tuân: “Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ suý, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?”
2. Ngô Tát Tố: “Trong cái trang thi sĩ của cuốn Việt Nam văn học sử sau này, dầu sao mặc lòng, ông Tản Đà là một người đứng đầu của thời đại này”.
3. Khái Hưng: “Nhưng trong làng văn nước ta, được nhiều người yêu mến thời còn sống, dễ mới có Tản Đà.“
4. Hoài Thanh – Hoài Chân: “Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa”.
5. Vũ Bằng: “Tôi sợ ông như một ông tiên ”.
6. Xuân Diệu: “Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi”.
7. Lê Thanh: “Ông Tản Đà là người thứ nhất và là người độc nhất của cái thế hệ ông đã làm sống lại cái hồn thơ Việt Nam đang hấp hối…..ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công nhiên để cho cái chữ tình mê man của mình rãi trong văn thơ”
Dàn ý phân tích “Hầu trời (Tản Đà)” số 2
Bố cục: gồm 3 phần
Phần 1 ( khổ thơ đầu): giới thiệu về chuyện lên hầu trời
Phần 2 ( tiếp… chợ Trời) thi nhân ngâm thơ cho Trời và chư tiên trên thiên đình nghe
Phần 3 (còn lại) Cuộc trò chuyện của thi nhân với trời
Câu 1 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Khổ thơ đầu mở ra giấc mơ của chính tác giả, câu thơ đầu tiên nghe như tác giả đặt vấn đề có vẻ khách quan: câu chuyện tôi sắp kể “chẳng biết có hay không”
Cách “nhập đề” lạ, một sự “hư cấu” nghệ thuật.
Nó là cớ để nhân vật bộc lộ được cảm xúc trong “cõi mộng”
– Cách vào đề gợi được sự thích thú, tò mò, dường như rất có duyên đối với người đọc
Câu 2 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Thi nhân đọc thơ trong sự hào hứng, có phần tự đắc:
Đương cơn tự đắc đọc đã thích
Trời nghe, trời cũng lấy làm hay
Chửa biết con in ra mấy mươi
– Giọng của thi nhân truyền cảm, hóm hỉnh, sảng khoái, cuốn hút
Thái độ của chư tiên khi nghe Tản Đà đọc thơ:
– Trời khen nhiệt thành: văn thật tuyệt, chắc có ít, đẹp như sao băng…
– Chư tiên xúc động, tán thưởng và hâm mộ: Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
+ Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
+ Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai nghe
→ Tản Đà là người “ngông” khi lên lên Trời khẳng định tài năng thơ văn của mình.
– Nhà thơ ý thức về tài năng, thơ văn của mình, dám thể hiện cái tài đó
– Đó là phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, tâm hồn không muốn chấp nhận sự bằng phẳng, sự đơn điệu, nên thường tự đề cao, phóng đại cá tính của mình
– Giọng thơ của Tản Đà cũng thể hiện niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới rẻ như bèo, thân phận bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ
– Giọng kể của tác giả: đa dạng, hóm hỉnh có phần ngôn nghênh, tự đắc
Khác với thơ ca trung đại có tính phi ngã thì trong thơ của Tản Đà có tính phi ngã
Câu 3 (Trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Cảm hứng lãng mạn có một đoạn hiện thực, đó là đoạn:
Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó
…
Biết làm có được mà dám theo
– Bẩm với trời về cảnh nghèo khó, vất vả của nghề viết văn dưới hạ giới
– Ý nghĩa đoạn thơ:
+ Đoạn thơ là bức tranh hiện thực về chính cuộc đời của tác giả, nhiều nhà văn khác
+ Tiếp sau đoạn thơ là tâm trạng của tác giả, khiến người đọc xót xa, ngậm ngùi trước cuộc sống cơ cực của lớp nhà văn trong chế độ cũ
Câu 4 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Những cái mới và hay về nghệ thuật của bài thơ
– Thể thơ: thể thất ngôn trường thiên tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu nào
– Ngôn từ: hóm hỉnh, hài hước, có duyên và lôi cuốn
– Cách biểu hiện cảm xúc: tự do, phóng khoáng
Tác giả miêu tả Trời và Chư tiên không có chút đạo mạo, ngược lại các đấng siêu nhiên đó cũng có cách bộc lộ cảm xúc ngộ nghĩnh, bình dân ( lè lưỡi, chau mày, tranh nhau dặn…)
LUYỆN TẬP
Bài 1 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Câu thơ hay trong bài gây ấn tượng: “Con không nói Trời đã biết/ Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết/ Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”
Đây cũng chính là ước nguyện của tác giả Tản Đà, được thấu hiểu, cảm thông. Lòng khi đã thông tường, mọi chuyện sương gió không còn ngại ngùng.
Bài 2 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):
“Ngông” để chỉ sự khác thường, “ngông” trong văn chương để chỉ một kiểu ứng xử xã hội, nghệ thuật khác thói quen thường có ở nhà văn
Điều này bắt nguồn từ việc tác giả ý thức được cái tôi, tài năng, nhân cách của bản thân.
Các tác giả có cái “ngông” như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà…
Cái “Ngông” của Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở:
+ Tự cho mình văn hay tới mức Trời phải tán thưởng
+ Tìm thấy sự đồng điệu, thu hiểu từ Trời và Chư tiên
+ Xem mình là một “trích tiên” bị đày vì tội ngông
+ Nhận mình là người nhà Trời xuống hạ giới thực hành “thiên lương” một sứ mệnh cao cả
Dàn ý phân tích “Hầu trời (Tản Đà)” số 3
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
– Tản Đà (1889 -1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay Ba Vì, Hà Nội). Ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu, nên con người ông, kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh).
– Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn. Các tác phẩm chính của Tản Đà: Khối tình con I, II (thơ – 1916, 1918), Giấc mộng con I, II (truyện phiêu lưu viễn tưởng – 1916, 1932), Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ (luận thuyết – 1918), Còn chơi (thơ và văn xuôi – 1921, Thơ Tản Đà (1925),Giấc mộng lớn (tự truyện – 1928),…
– Phong cách thơ: Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, vừa ngông nghênh, vừa cảm thương, vừa ưu ái,..Thơ văn ông có thể xem như là một gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
2. Tác phẩm: bài Hầu trời in trong tập Còn chơi, xuất bản lần đầu năm 1921.
Bố cục: 4 phần
+ Đoạn 1 (Câu 1- 20): Lí do, hoàn cảnh được lên đọc thơ hầu Trời
+ Đoạn 2 (Câu 21 – 68):Kể về buổi đọc thơ cho Trời và chư tiên
+ Đoạn 3 (Câu 68 -98): Tâm sự của nhà thơ với Trời về hoàn cảnh khốn khó của mình
+ Đoạn 4 (Còn lại): Phút tiễn biệt Trời, về lại thực tại
Đọc hiểu văn bản
Câu 1 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Phân tích khổ đầu:
– Thời gian: đêm qua
– Không gian: Tĩnh lăng, yên tĩnh.
– Điệp từ “thật”.
– Câu cảm thán: Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể .
→ Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng, bất ngờ.
=> Bốn câu thơ đầu là câu chuyện kể lại về một giấc mơ được lên cõi tiên.
Cách vào đề của bài thơ gây được một mối nghi vấn, gợi trí tò mò cho người đọc. Cách vào chuyện như vậy vừa độc đáo, vừa có duyên là cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn, hấp dẫn.
Câu 2 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
– Thái độ của tác giả khi đọc thơ cho trời và chư tiên: thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc:
Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn lý thuyết lại văn chơi
– Thi nhân kể tường tận, chi tiết về những tác phẩm của mình:
Hai quyển khối tình văn lí thuyết
Hai khối tình con là văn chơi
Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết
– Chư tiên nghe thơ xúc động, ngưỡng mộ tài năng của tác giả:
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay
– Thái độ của Trời khen rất nhiệt thành:
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
…..
– Đoạn thơ thể hiện rất rõ cá tính của thi sĩ. Tản Đà đã ý thức rất rõ về tài năng của mình và cũng rất táo bạo, bộc lộ “cái tôi” đó. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng. Đây cũng là niềm khát khao trân thành trong lòng thi sĩ. Bởi giữa chốn hạ giới, văn chương lúc này không được coi trọng, “giá rẻ như bèo” nên Tản Đà chỉ còn biết lên tận trời để than vãn, để khẳng định và bộc lộ tài năng của bản thân.
– Giọng đọc: Hóm hỉnh, ngông nghênh và có phần tự đắc.
Câu 3 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2)
Đoạn thơ rất hiện thực trong bài:
Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
[…]
Sức trong non yếu ngoài che rấp
Một cây che chống bốn năm chiều.
Đoạn thơ nói lên một bức tranh chân thực về chính cuộc đời nhà thơ và của những văn sĩ khác lúc đó. Đó là cuộc sống cơ cực, vất vả, nghèo khó, làm chẳng đủ ăn… Bởi vậy dễ hiểu vì sao ông tìm lên đến tận trời để than vãn, để thỏa niềm khao khát, ước mơ của mình.
Là nhà văn giàu cảm hứng lãng mạn nhưng ông vẫn không thoát li khỏi cuộc đời, vẫn khao khát được khẳng định tài năng của mình. Hai cảm hứng này đan cài khăng khít và không tách biệt trong sáng tác của nhà văn.
Câu 4 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Đặc sắc về nghệ thuật
– Thể loại: thể thơ thất ngôn trường thiên tự do.
– Ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế, rất gần với đời thường.
– Cách kể chuyện hóm hỉnh, lôi cuốn người đọc.
– Cảm xúc bộc lộ tự nhiên, phóng túng, tự do.
Luyện tập
Câu 1 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Cảm nhận về câu thơ mà mình thích nhất để thấy được phong cách thơ của Tản Đà.
Câu thơ hay trong bài gây ấn tượng: “Con không nói Trời đã biết/ Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết/ Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”
Đây cũng chính là ước nguyện của tác giả Tản Đà, được thấu hiểu, cảm thông. Lòng khi đã thông tường, mọi chuyện sương gió không còn ngại ngùng.
Câu 2 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
“Ngông” trong văn chương chỉ sự khác thường. Đó là phản ứng của những người nghệ sĩ tài hoa, cá tính, không chịu trói mình trong khuôn khổ chật hẹp, sống phóng túng, tự do, khẳng định cá tính và bản lĩnh của mình.
Cái “ngông” của thi sĩ Tản đà trong bài thơ được biểu hiện qua:
– Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài tài năng của mình: tự cho mình văn hay đến mức trời và chư tiên cũng phải tán thưởng…
– Xem mình là một trích tiên bị đày xuống vì tội ngông.
– Nhận mình là người nhà trời, được sai xuống để thực hiện sứ mệnh cao cả…
Dàn ý phân tích “Hầu trời (Tản Đà)” số 4
1. Dàn ý Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà
1. Mở bài
-Giới thiệu về tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời
-Dẫn dắt vào vấn đề
2. Thân bài
– Khái quát chung
Xuất xứ: Trích từ tập “còn chơi”
Bố cục: 4 phần
Chủ đề: thể hiện cái tôi ngông của tác giả sau khi về lại trần gian.
– Phân tích
Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
+ Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc: “ Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
+ Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình: “Hai quyển khối tình văn lý thuyết/ Hai khối tình còn là văn chơi/ Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”
+ Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài năng. Đây là niềm khát khai chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả.
+ Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
+ Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạng và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
Thi nhân trò chuyện với trời:
+ Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình =>Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.
+ Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là môt cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cỏi trời để thoả nguyện nỗi lòng.
=>Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bĩ rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân:
+ Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương. =>Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hành phúc hơn.
+ Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời => đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạng và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít.
3. Kết bài
-Những nhận xét, cảm nhận chung nhất về vấn đề
-Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân
Dàn ý phân tích “Hầu trời (Tản Đà)” số 5
I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả – tác phẩm
– Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu
– Quê hương: Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây)
– Con người:
+ Sinh ra và Lớn lên trong buổi giao thời.
+ Là “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh)
+ Học chữ hán từ nhỏ nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ…
– Phong cách thơ:
+ Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái.
+ Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
Các tác phẩm
– Thơ: Khối tình con người I, II (1916, 1918)
– Truyện: Giấc mộng con người I, II (1916, 1932)
– Tự truyện: Giấc mộng lớn (1928)
– Thơ và văn xuôi: Còn chơi (1921).
2. Văn bản “Hầu trời”
a) Xuất xứ
– Trong tập “Còn chơi” (1921)
– Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…
b) Bố cục: 3 phần:
– Phần 1: Giới thiệu về câu truyện, từ “đêm qua … lạ lùng”
– Phần 2: “chủ tiên … chợ trời” Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
– Phần 3: “Trời lại phê cho… sương tuyết” thi nhân trò chuyện với trời.
II. Nội dung cơ bản
1. Giới thiệu câu chuyện
Gợi khoảnh khắc yên tĩnh, vắng lặng.”- Câu chuyện xảy ra vào “đêm qua” (câu 1)
– Câu chuyện kể về một giấc mơ được lên cõi tiên (câu 4).
– Nhân vật trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng “chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng”
– Biện pháp nghệ thuật: nhấn mạnh tâm trạng cảm xúc của thi nhân.
+ Điệp từ ‘thật” Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng.
+ Câu cảm thán dường như lật lại vấn đề: mơ và tỉnh, hư mà như thực.
+ Câu khẳng định
– Cách giới thiệu trên đã gợi cho người đọc về tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái “hồn cốt” trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thực.
=> Cảm nhận được “cái tôi” cá nhân đầy chất lãng mạn, bay bổng pha lẫn nét “ngông” trong thơ thi nhân. Với cách vào chuyện độc đáo có duyên đã làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên hấp dẫn lôi cuốn.
2. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
a) Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
– Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc:
“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
– Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình:
“Hai quyển khối tình văn lý thuyết Hai khối tình còn là văn chơi Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”
– Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài năng. Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
b) Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả
– Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
– Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
3. Thi nhân trò chuyện với trời
a) Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình
– Thi nhân kể họ tên, quê quán:
“ Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn Quê ở Á châu về địa cầu Sông Đà núi Tản nước Việt Nam”
– Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.
– Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cỏi trời để thỏa nguyện nỗi lòng.
“Bẩm trời hoàn cảnh con thực nghèo khó” “Trần gian thước đất cũng không có” “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” “Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”
Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
b) Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân
– Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.
Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát ly cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
– Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời
=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít.
III. Tổng kết
1. Nội dung
– Bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, kiêu bạc, hào hoa và cái tôi cô đơn, bế tắc trước thời cuộc.
– Có thể thấy nhà thơ đã tìm được hướng đi đúng đắn để khẳng định mình.
2. Nghệ thuật
– Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, không cách điệu, ước lệ.
– Tác giả vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính.
– Cảm xúc bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do…
Nguồn: Tổng Hợp