Hệ thống toàn bộ bài soạn ”Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận” lớp 12

Hệ thống toàn bộ bài soạn ”Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận” lớp 12 ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ nhất giúp các em học sinh biết phát hiện và sửa lại những lỗi sai trong lập luận đồng thời biết cách tránh những lỗi đó trong quá trình thực hành làm văn.

Bài soạn ”Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận” số 1

Câu 1 + 2 (trang 212 sgk ngữ văn 12 tập 1):

Kết hợp phát hiện lỗi sai và sửa:

a, Lỗi: lí lẽ, dẫn chứng không khớp nhau, dùng từ thừa, câu văn lỏng lẻo

Sửa: Mặt khác tục ngữ thể hiện kinh nghiệm thông qua quá trình quan sát, đúc kết hiện tượng từ tự nhiên: “chuồn chuồn … thì râm”.

b, Lỗi: sử dụng quan hệ từ sai

Sửa: Người thanh niên trong lặng lẽ Sapa của Nguyễn Thành Long không chỉ say mê công việc mà còn lạc quan yêu đời.

c, Luận điểm và luận cứ không hài hòa với nhau

Sửa: truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân cho thấy sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống. Chính trong lúc đói họ nương tựa vào nhau chia sẻ với nhau hoàn cảnh hoạn nạn, vợ chàng cũng nhờ có mấy bát bánh đúc của Tràng mà thoát cơn đói và nên duyên vợ chồng với Tràng. Đó chính là biểu hiện của giá trị nhân đạo

d, Nêu lí lẽ, dẫn chứng không ăn nhập trong lập luận

Sóng bắt nguồn và đi về đâu, Xuân Quỳnh như hóa thân vào con sóng để bộc lộ tình yêu, khát vọng tuổi trẻ của mình.

e, Lỗi: Luận cứ, luận điểm không có sự logic, cách sắp xếp luận cứ lộn xộn

Sửa: Lòng thương người của Nguyễn Du bao trùm lên toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều. Ông thương xót Kiều vì nàng chịu nhiều tai họa, chính vì thế các đoạn trích trong sách giáo khoa đều thể hiện rõ nỗi đau của Kiều khi phải bán mình chuộc cha. Điều này phần nào cho thấy đời sống hồng nhan của Kiều- cuộc sống hồng nhan bạc mệnh.

g, Luận điểm và luận cứ nêu lan man, không đúng trọng tâm

Sửa: Hình ảnh cây xà nu tượng trưng cho người dân Xô- man

Hình ảnh cây xà nu trúng đạn như người dân Xô Man bị giết hại, nhưng sức sống vẫn mạnh mẽ “vươn lên đón ánh mặt trời… lông mao, lông vũ”. Qua đây, Nguyễn Trung Thành muốn khẳng định sự tiếp nối truyền thống đánh giặc của người dân Tây Nguyên.

h, Luận điểm luận cứ thiếu chặt chẽ, lời lẽ chung chung.

Văn học dân gian có giá trị nuôi dưỡng tâm hồn con người. Các tác phẩm hướng tới các giá trị chân – thiện- mĩ nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Từ thuở lọt lòng ta được nghe chuyện Thạch Sanh hiện thân của người lao động giỏi, dũng cảm, chân thật bị mẹ con nhà Lí Thông hãm hại, cuối cùng cũng được sống hạnh phúc bên công chúa. Cô Tấm sống đi chết lại nhiều lần để giữ hạnh phúc. Bên cạnh đó, những câu ca dao ru hồn ta bằng tình yêu quê hương đất nước, gắn bó máu thịt với con người, biết ơn tổ tiên, ông cha. Văn học dân gian tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật, làm tiền đề cho sự phát triển của văn học viết.

Bài soạn ”Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận” số 2

Đoạn a:

– Lỗi: Lỗi của đoạn văn này là lí lẽ và dẫn chứng (luận cứ) không ăn nhập với nhau. Luận cứ chưa đầy đủ.

– Sửa: Giá trị quan trọng nhất của văn học dân gian là giá trị nhân thức. Văn học dân gian chứa đựng một kiến thức khổng lồ, phong phú về tự nhiên và đời sống xã hội: những câu tục ngữ, ca dao vừa cung cấp cho chúng ta những hiểu biết, những kinh nghiệm sống, vừa tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người. Những câu chuyện cổ tích cho ta biết được cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa cái thiện với cái ác, tâm hồn luôn hướng thiện của nhân dân ta. 

Đoạn b:

– Lỗi: Sử dụng quan hệ từ không phù hợp

– Sửa: Người thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long không chỉ say mê công vịêc mà còn tha thiết yêu đời, yêu người. Anh còn rất thèm người. Anh thèm người tới mức tự tay lăn một cây to chặn ngang giữa đường để được gặp mặt và trò chuyện với đoàn khách lên Sa Pa dù chỉ là một vài phút. Chính vì sự thèm người ấy đã làm cho ta hiểu thêm phần về tính cách, tâm hồn anh. Anh vẫn yêu đời, yêu người.

Đoạn c:

– Lỗi: Các câu văn diễn ý rất rời rạc, không phù hợp với nhau. Đó là sự “lắp ghép” thiếu mạch lạc.

– Sửa: Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân cho ta thấy sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống. Trong cái đói quay quắt, họ đã biết nương tựa vào nhau, chia sẻ cho nhau. Đó chính là biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

Đoạn d:

– Lỗi: Câu 3 và 4 có nội dung không phù hợp vời bài.

– Sửa : Nếu ai đã từng ra biển thì hẳn phải cảm nhận được vẻ đẹp kì diệu và sức mạnh của những con sông miên man vỗ bờ. Những con sóng luôn biến đổi khôn lường, lúc thì êm ả, dịu dàng, lúc lại sôi sục, dữ dội. Chính vì thế Xuân Quỳnh đã ví tình yêu của mình như những con sóng “Dữ dội và dịu êm – Ồn ào và lặng lẽ”. Xuân Quỳnh đã hoá thân vào những con sóng để nói lên tình yêu của mình.

Đpạn e:

– Lỗi: Giữa luận điểm và luận cứ không ăn nhập với nhau, ngoài ra còn mắc một số lỗi về dùng từ.

– Sửa : Lòng thương người của Nguyễn Du bao trùm lên toàn bộ tác phẩm truyện Kiều. Đoạn trích nào của truyện cũng đều biểu hiện tấm lòng ấy của Nguyễn Du. Ông thương nàng Kiều phải bán mình chuộc tội cho cha và em. Ông xót xa khi Kiều phải “thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”. Ông cảm thông, chia sẻ với Kiều. Ta càng hiểu vì sao Truyện Kiều đạt tới đỉnh cao chủ nghĩa nhân đạo.

Đoạn g:

Lỗi: Câu trích dẫn không phù hợp với ý kiến đưa ra.

Ý kiến đưa ra: “Hình ảnh những thế hệ cây xà nu cũng gợi lên sự tiếp nối của thế hệ những người dân Xô-man” không phù hợp với trích dẫn: “Có những cây non vừa lớn ngang tầm ngực đã bị đại bác chặt đứt làm đôi… nhưng cũng có nhưng cây vượt lên-đầu người, cành lá sum suê như con chim đã đủ lông mao, lông vũ”. Có những câu còn tối nghĩa, phải sửa lại.

– Sửa: “Cây xà nu là một loại cây họ thông mọc rất nhiều trong những khu rừng ở Tây Nguyên. Xà nu là loại cây gỗ quý và đặc biệt có sức sống rất mãnh liệt. Rừng xà nu là biểu tượng của người dân Xô – man. Hình ảnh những thế hệ cây xà nu gợi lên sự nối tiếp của thế hệ người dân nơi đây trong cuộc kháng chiến không cân sức với kẻ thù hung bạo là đế quốc Mĩ”.

Đoạn h:

– Lỗi: Luận điểm không rõ ràng, luận cứ chưa thành hệ thống.

– Sửa: “Văn học dân gian có giá trị nuôi dưỡng tâm hồn con người. Các tác phẩm của văn học dân gian đều hướng con người tới chân – thiện – mĩ. Cô Tấm phải sống đi chết lại nhiều lần để cuối cùng trở lại làm người, giết kẻ thù, giành lại hạnh phúc. Thạch Sanh cũng là hiện thân của người lao động giỏi, dũng cảm và chân thật, bị mẹ con Lí Thông gian tham độc ác đánh lừa nhưng cuối cùng chàng vẫn được làm phò mã, nối ngôi vua. Những câu ca dao ru hồn ta bằng tình yêu quê hương đất nước và gắn bó với con người, biết ơn tổ tiên, ông cha, biết rèn mình góp phần nuôi dưỡng tâm hồn con người. Văn học dân gian còn tiêu biểu cho nhiều phong cách nghệ thuật, đặt nền móng cho văn học viết. Nhà văn học gì ở truyện cổ tích, nhà thơ học gì ở ca dao. Phải chăng đó là văn học về cốt truyện, bố cục truyện, những tình tiết, sự kiện, tình huống gây cho người đọc người nghe sự hứng thú. Cách nói so sánh, ẩn dụ, nhân hoá… của ca dao là những bài học sáng giá cho những nhà thơ và với những ai “trót nợ vì thơ”.

Bài soạn ”Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận” số 3

Trả lời câu hỏi bài 1 trang 211 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận ngữ văn 12.

Đề bàiPhát hiện và phân tích các lỗi lập luận trong những đoạn văn sau:

a) Giá trị quan trọng nhất của văn học dân gian là giá trị nhận thức. Văn học dân gian chứa đựng một lượng kiến thức khổng lồ, phong phú về tự nhiên và đời sống xã hội. Những câu tục ngữ, ca dao vừa cung cấp cho chúng ta những hiểu biết, những kinh nghiệm sống, vừa tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người. Ví dụ như câu: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa – bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” là một cách dự báo thời tiết của nhân dân ta.

c) Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã cho thấy sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống. Nhờ có mấy bát bánh đúc mà người đàn bà trở thành vợ của Tràng. Cũng chính vì đói mà họ nương tựa vào nhau, chia sẻ với nhau giữa lúc hoạn nạn. Đó chính là biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

d) Nếu ai đã từng ra biển thì hẳn phải cảm nhận vẻ đẹp kì diệu và sức mạnh của những con sóng biển miên man vỗ bờ. Những con sóng luôn biến đổi khôn lường, lúc thì êm ả, dịu dàng, lúc lại sôi sục, dữ dội. Và những con sóng ấy dường như không biết mệt. Sóng từ đâu đến và đi đâu, về đâu? Chính vì thế, Xuân Quỳnh đã ví tình yêu của mình như những con sóng “Dữ dội và dịu êm – ồn ào và lặng lẽ”. Chính Xuân Quỳnh đã hoá thân vào những con sóng để nói lên tình yêu của mình.

e) Lòng thương người của Nguyễn Du bao trùm lên tòan bộ tác phẩm Truyện Kiều. Đoạn trích nào trong sách giáo khoa ông cũng nâng cao phẩm giá con người. Kiều thương cha bị đòn mà phải bán mình. Điều này khiến chúng ta thấy rõ hơn cuộc sống hồng nhan của Kiều. Ông thương xót Kiều vì Kiều chịu bao nhiêu tai hoạ. Ta càng hiểu thế nào là hồng nhan bạc mệnh.

g) Cây xà nu là một loài cây họ thông mọc rất nhiều trong những khu rừng ở Tây Nguyên. Xà nu là một loại cây gỗ quý và đặc biệt có sức sống rất mãnh liệt. Nói đến cây xà nu là ta hình dung con người Tây Nguyên với phẩm chất anh dũng, quật cường. Rừng xà nu là biểu tượng cho người dân Xô Man. Hình ảnh những thế hệ cây xà nu cũng gợi lên sự tiếp nối của thế hệ những người dân Xô Man: “có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi… nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ”.

h) Chính vì ra đời từ rất sớm nên văn học dân gian có giá trị bảo tồn và nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Các tác phẩm văn học dân gian đều hướng con người tới cái “chân, thiện, mĩ”. Không một ai là không biết đến truyện cổ tích Tấm Cám. Cuộc đấu tranh của cô Tấm với mẹ con Cám cũng chính là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Và tất nhiên chiến thắng sẽ thuộc về cái thiện. Văn học dân gian còn là kho tàng về nghệ thuật:

“Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”.

Với phép so sánh đặc sắc, câu ca dao là lời hát về thân phận éo le, khổ cực của người phụ nữ trong xã hội xưa. Với những giá trị ấy văn học dân gian là bộ phận của văn học Việt Nam và là nền tảng của văn học viết.

Trả lời bài 1 trang 211 SGK văn 12 tập 1

a) Lỗi: Luận cứ không đầy đủ. Đề tài nói về văn học dân gian, phần triển khai luận cứ chỉ đề cập một vấn đề hẹp là ca dao, tục ngữ.

-> Sửa lại:

– Bổ sung luận cứ về giá trị nhận thức của văn học dân gian trong truyện cổ, ca dao tục ngữ…

– Sắp xếp luận cứ theo hệ thống.

b) Lỗi: Luận cứ không chặt chẽ, thiếu logic. Nội dung câu kết không phù hợp với các câu trên.

-> Sửa lại:

– Sửa luận cứ dẫn chứng sai.

– Sửa luận điểm 1 thành: “Người thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa không chỉ say mê công việc mà còn tha thiết yêu đời, yêu người.”

c) Lỗi: Luận điểm nêu chưa rõ, chưa phù hợp với bản chất của đối tượng nghị luận “hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống” là quá trình chung, chưa làm nổi bật vấn đề. Luận cứ quá sơ lược, chưa đầy đủ, chưa trình bày được những khía cạnh chủ yếu liên quan đến chi tiết “Tràng nhặt được vợ” thì vội đi đến kết luận chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm.

-> Sửa lại: Bỏ câu 2. Câu 3 đổi thành “Trong cái đói gay gắt họ vẫn biết nương tựa vào nhau”.

d) Lỗi: Không nêu được luận điểm cần thiết liên quan trực tiếp đến vấn đề, lập luận lan man, xa rời vấn đề.

-> Sửa lại: Bỏ câu 3, 4

e) Lỗi: Luận cứ thiếu lôgic, quan hệ giữa các luận cứ không chặt chẽ, không phù hợp, không có các dẫn chứng đầy đủ để làm rõ luận điểm được nêu. Kết luận không phù hợp với nội dung của luận điểm.

-> Sửa lại: Sửa lại luận cứ không phù hợp. Bổ sung thêm các luận cứ mới để làm rõ cho luận điểm hơn. Bỏ câu kết.

g) Lỗi: Luận cứ được nêu làm tiền đề dẫn nhập cho luận điểm chính rườm rà, lan man, không có vai trò làm nổi bật vấn đề.

-> Sửa lại: Bỏ luận cứ: “Nói đến cây xà nu… quật cường”. Sửa lại luận cứ: “Hình ảnh những thế hệ… lông mao, lông vũ” cho phù hợp với cách lập luận.

h) Lỗi: luận điểm không rõ ràng, luận cứ thiếu hệ thống, không toàn diện

-> Sửa lại: Sửa luận điểm đầu tiên thành: “Văn học dân gian có giá trị nuôi dưỡng tâm hồn con người”. Thay đổi cách diễn đạt ở luận cứ để phù hợp với luận điểm.

 

Bài soạn ”Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận” số 4

Câu 1 – Trang 211 SGK Ngữ Văn 12 Tập 1: Phát hiện và phân tích các lỗi tập luận trong những đoạn văn sau:

a) Luận cứ nêu không đầy đủ, chỉ tập trung vào tục ngữ, ca dao trong khi luận điểm chính được nêu lên ở đầu đoạn văn là: “Giá trị quan trọng nhất của văn học dân gian là giá trị nhận thức”. Luận cứ chỉ đề cập đến một khía cạnh hẹp: hiểu biết, nhận thức về tự nhiên.
Đây là lỗi do người viết không nắm được các khía cạnh cụ thể của vấn đề nghị luận, không hiểu quan hệ loogic của các luận cứ và thiếu các dẫn chứng cụ thể để làm rõ luận điểm.

b) Ở đoạn văn này, luận điểm “Anh thèm người tới mức… dù chỉ là một phút” không rõ ràng, không nêu được bản chất của vấn đề, không tương đương với luận điểm được nêu ở câu trên “Người thanh niên trong truyện ngắn…”. Luận cứ không chặt chẽ và thiếu lôgic: “Chính cái sự thèm người ấy… Đó là biểu hiện rõ nét nhất của tinh thần lạc quan”.
Đây là lỗi do không nắm vững vấn đề trình, không hiểu mối liên hệ giữa các chi tiết trong tác phẩm nên việc khái quát luận điểm không phù hợp với đối tượng và không triển khai xác đáng, thuyết phục.

c) Luận điểm nêu chưa rõ, chưa phù hợp với bản chất của đối tượng nghị luận “hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống” là quá trình chung, chưa làm nổi bật vấn đề.
Luận cứ quá sơ lược, chưa đầy đủ, chưa trình bày được những khía cạnh chủ yếu liên quan đến chi tiết “Tràng nhặt được vợ” thì vội đi đến kết luận chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Đây là lỗi do người viết không hiểu thấu đáo vấn đề đang nghị luận nên cả luận điểm, luận chứng đều chưa thuyết phục.

d) Không nêu được luận điểm cần thiết liên quan trực tiếp đến vấn đề: khát vọng tình yêu của nhân vật trữ tình và hình tượng con sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Luận cứ nêu ra làm tiền đề để dẫn nhập cho lập luận lan man, xa rời vấn đề: “Nếu ai đã từng ra biển… Sóng từ đâu đến và sóng đi đâu, về đâu?”
Lỗi do người viết không nắm được rõ phạm vi luận điểm cần trình bày, không tìm được những luận cứ cần thiết liên quan trực tiếp đến luận điểm mà mình đang triển khai.

e) Luận cứ thiếu lôgic: “Đoạn trích nào trong sách giáo khoa ông cũng nâng cao phẩm giá con người”. Quan hệ giữa các luận cứ luận cứ lại không chặt chẽ, không phù hợp. Luận điểm nêu cũng chưa xác đáng, chưa phản ánh được bản chất của vấn đề nghị luận.

g) Luận cứ được nêu làm tiền đề dẫn nhập cho luận điểm chính quá rườm rà, lan man, không làm nổi bật được vấn đề: “Cây xà nu là một loài cây họ thông, mọc rất nhiều trong Tây Nguyên… sức sống rất mãnh liệt”
Lỗi ở đây do người viết chưa xác định được phạm vi vấn đề nghị luận, vì vậy quan hệ giữa các luận cứ, luận điểm lỏng lẻo, dẫn đến trình bày lan man, xa rời vấn đề chính.

h) Lỗi của lập luận này là luận điểm không rõ ràng, luận cứ thì thiếu hệ thống, không toàn diện

Câu 2 Trang 212 SGK Ngữ Văn 12 Tập 1: Chữa lại các đoạn vàn trên để lập luận chặt chẽ, lôgíc và có sức thuyết phục.

a) Có thể bổ sung thêm những luận cứ về giá trị nhận thứ của văn học dân gian truyện cổ, ca dao, tục ngữ,, và sắp xếp chúng theo hệ thống nhất định.

b) Cần nêu rõ luận điểm: “Người thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa… yêu đời, yêu người”.
Sửa lại các luận cứ: Anh còn rất thèm người tới mức đã tự tay lăn một cây to chặn ngang giữa đường để được gặp mặt và trò chuyện với đoàn khách lên Sa Pa dù chỉ một vài phút,…

c) Cần nêu lại luận điểm: Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân đã biểu hiện được một niềm khát kháo sống, khát khao được yêu thương, chia sẻ ngay trong cảnh khốn cùng nhất…
Bổ sung một số luận cứ tiêu biểu ngắn gọn liên quan đến tình huống nhặt được vợ của Tràng, thái độ của bà cụ Tứ. Sau đó mới nêu lên kết luận: Đó chính là khía cạnh nổi bật nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

d) Có thể bỏ các luận cứ: “Nếu ai đã từng ra biển thì hẳn… và sóng đi đâu, về đâu” và thay bằng các luận cứ: “Thế giới tâm trạng của người đang yêu, nhất là với một trái tim dào dạt cảm xúc như Xuân Quỳnh. Vì thế, nhà thơ đã nói lên nhịp của trái tim đang yêu bằng nhịp của những con sóng cồn cào đầy bí ẩn: dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ.

e) Cần nêu lại luận điểm: Tình yêu thương con nguời của Nguyễn Du, được gửi gắm vào mỗi trang Kiều, mỗi lời thơ “như khóc như than” cho thân phận con người “tài hoa bạc mệnh”.
Các luận cứ cần được sắp xếp theo trình tự lôgic: trân trọng phẩm giá con người, cảm thông với nỗi đau của thân phận Kiều sao cho hợp lí.

g) Có thể bỏ các luận cứ: “Cây xà nu là một loài cây họ thông, mọc rất nhiều trong khu rừng Tây Nguyên… sức sống mãnh liệt”.

h) Nêu lại luận điểm: “Văn học dân gian luôn hướng con người tới cái “chân, thiện, mĩ”.
Bổ sung các luận cứ cho phù hợp, toàn diện để dẫn đến kết luận: “Chính vì thế, văn học dân gian là nền tảng cho văn học viết.”

Bài soạn ”Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận” số 5

1. PHÁT HIỆN VÀ PHÂN TÍCH CÁC LỜI LẬP LUẬN

a) Luận cứ nêu không đầy đủ, chỉ tập trung vào tục ngữ, ca dao trong khi luận điểm chính được nêu lên ở đầu đoạn vãn là “Giá trị quan trọng nhất của văn học dân gian là giá trị nhận thức”, cần lần lượt đề cập đến truyện cổ, ca dao rồi đến tục ngữ… Luận cứ chỉ đề cập đến một khía cạnh hẹp: hiểu biết, nhận thức về tự nhiên (nói rõ hơn là thời tiết).

Nguyên nhân của lỗi này là người viết không nắm được các khía cạnh cụ thể của vâ’n đề nghị luận, không hiểu quan hệ lô-gic của các luận cứ và thiếu các dần chứng cụ thể để làm rõ luận điểm.

Từ phát hiện và phân tích được các lỗi lập luận như trên, học sinh dễ dàng chữa lại để lập luận chặt chẽ, lô-gic và có sức thuyết phục.

b) Ở đoạn văn này, luận điểm nêu không rõ ràng: nội dung câu 1 và câu 2 nhằm mục đích nêu luận điểm nhưng luận điểm chủ yếu được nêu trong câu 2 mà lại không xác đáng vì không nêu được bản chất của vấn đề, không phải là một nội dung tương đương với luận điểm được nêu như một tiền đề ở câu 1. Luận cứ lại không chặt chẽ và thiếu lô-gic: “Chính cái sự thèm người ẩy… Đó là biểu hiện rõ nét nhất của tinh thần lạc quan”.

Đây là lỗi do không nắm vững vấn đề trình bày, không hiểu mối liên hệ giữa các chi tiết trong tác phẩm nên việc khái quát luận điểm không phù hợp với đối tượng và không triển khai được các luận cứ xác đáng, thuyết phục.

Hiểu như vậy, học sinh dễ dàng chữa lại đoạn vãn để lập luận chặt chẽ lô-gic và có sức thuyết phục.

c) Luận điểm nêu chưa rõ, chưa phù hợp với bản chất của đối tượng nghị luận (nói “hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống” là quá chung chung, chưa làm nổi bật được vấn đề: ranh giới giữa sự sống và cái chết vào những ngày tháng khủng khiếp của nạn đói nãm 1945 và khát vọng được làm người, được yêu thương trong Vợ nhặt. Luận cứ quá sơ lược, chưa đầy đủ, chưa trình bày được những khía cạnh chủ yếu liên quan đến chi tiết “Tràng nhặt được vợ” thì đã vội vàng đi đến kết luận chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Đây là lỗi do người viết không hiểu thấu đáo vấn đề đang nghị luận nên cả luận điểm, luận chứng đều chưa thuyết phục được.

d) Không nêu được luận điểm cần thiết liên quan trực tiếp đến vấn đề: khát vọng tình yêu của nhân vật trữ tình và hình tượng con sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Luận cứ nêu ra làm tiền đề để dẫn nhập cho lập luận cũng quá lan man, xa rời vấn đề: “Nếu ai đã từng ra biển… Sóng từ đâu đến và sóng đi đâu, về đâu”?

Lỗi là do người viết không nắm được rõ phạm vi luận điểm cần trình bày, không tìm được những luận cứ cần thiết liên quan trực tiếp đến luận điểm mà mình đang triển khai.

e) Luận cứ thiếu lô-gic: “Đoạn trícli nào trong sách giáo khoa ông cũng nâng cao phẩm giá con người”. Quan hệ giữa các luận cứ lại không chặt chẽ, không phù hợp: “Kiều thương cha bị đòn mà phải bán mình. Điều này khiến chúng ta thấy rõ hơn cuộc sống hồng nhan của Kiều. Ông thượng xót Kiều vì Kiều chịu bao nhiêu tai hoạ. Ta càng hiểu thế nào là hồng nhan bạc mệnh”. Không có các dẫn chứng đầy đủ để làm rõ cho luận điểm. Thêm vào đó, luận điểm nêu cũng chưa thật xác đáng, cách dùng từ lòng thương người quá chung chung, chưa phản ánh được bản chất của vấn đề cần nghị luận: Tư tưởng nhân đạo trong Truyện Kiều, tình yêu thương, cảm thông sâu sắc với bi kịch cuộc đời người phụ nữ của Nguyễn Du.

g) Luận cứ được nêu làm tiền đề dẫn nhập cho luận điểm chính quá rườm rà, lan man, không làm nổi bật được vân đề: “Cây xà nu là một loài cây họ thông, mọc rất nhiều trong những khu rừng ở Tây Nguyên. Xà nu là một loài cây gỗ quý và đặc biệt có sức sống rất mãnh liệt”.

Lỗi là do người viết chưa ý thức rõ phạm vi vấn đề cần nghị luận, vì vậy quan hệ giữa các luận cứ, luận điểm lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng trình bày lan man, xa rời vấn đề chính. .

h) Lỗi chủ yếu của lập luận này là luận điểm không rõ ràng. Nói cụ thể là quan hệ giữa tiền đề chính vì ra đời từ rất sớm và kết luận bộ phận văn học dân gian… ở đây là không lô-gic. Đã vậy, luận điểm lại chồng chéo Văn học dân gian còn là kho tàng về nghệ thuật. Với những giá trị ấy, văn học dân gian là bộ phận của văn học Việt Nam và là nền tảng của văn học viết. Nhìn chung là luận cứ thiếu hệ thông, thiếu sót, không toàn diện.

2. HƯỚNG SỬA CHỮA CÁC LỖI LẬP LUẬN

a) Có thể bổ sung thêm những luận cứ về giá trị nhận thức của văn học dân gian trong truyện cổ, ca dao, tục ngữ và sắp xếp theo hệ thống nhất định: xã hội, con người, lao động sản xuất, tự nhiên cho hợp lí.

b) Cần nêu rõ luận điểm: Người thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long không chỉ say mê công việc mà còn tha thiết yêu đời, yêu người. Sửa lại các luận cứ: Anh còn rất thrfm người. Anh thèm người tới mức đã tự tay lăn một cây to chặn ngang giữa dường để được gặp mặt và trò chuyện với đoàn khách lên Sa Pa dù chỉ là một vài phút; Một mình làm công việc thầm Lặng giữa mây gió, sương mù trên sườn đèo heo hút, anh luôn khao khát được gặp gỡ chia sẻ với mọi người…

c) Cần nêu lại luận điểm: Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân dã hiểu hiện được niềm khao khát sống, khao khát được yêu thương, chia sẻ ngay trong cảnh khốn cùng nhất. Con người phải đối mặt với cái đói và cái chết… vì đói. Bổ sung một số luận cứ tiêu biểu ngắn gọn liên quan đến tình huống nhặt được vợ của Tràng, thái độ và tâm trạng của bà cụ Tứ. Sau đó mới nêu kết luận: Đó chính là khía cạnh nổi bật nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

d) Có thể bỏ các chính luận: “Nếu ai đã từng ra biển thì. hẳn phải cảm nhận dược vẻ dẹp kì diệu và sức mạnh của những con sóng miên man vỗ bờ. Những con sóng luôn biến đổi khôn lường, lúc thì êm ả, dịu dàng, lúc lại sôi sục, dữ dội. Và những con sóng ấy dường như không biết mệt. Sóng từ dâu đến và sóng đi đâu, về đâu”. Thay vào đó bằng các luận cứ: “Thế giới tâm trạng của người đang yêu, nhất là của một trái tim “tự hát” như Xuân Quỳnh là thế giới đầy biến động. Chính vì thế, Xuân Quỳnh dã nói lên nhịp của trái tim đang yêu bằng nhịp của những con sóng cồn cào đầy bí ẩn: Dữ dội và dịu êm. Ôn ào và lặng lẽ”.

e) Cần nêu lại luận điểm: Tình yêu thương con người của Nguyễn Du được gửi gắm vào mỗi trang Kiều, mỗi lời thơ “như khóc như than” cho thân phận con người “tài hoa bạc mệnh”.

Sửa và bổ sung các luận cứ cụ thể, sắp xếp theo trình tự lô-gic nhất định: trân trọng phẩm giá con người, cảm thông với nỗi đau của phận hồng nhan cho hợp lí.

g) Có thể bỏ các luận cứ: Cây xà nu là một loài cây họ thông, mọc rất nhiều trong những khu rừng ở Tây Nguyên. Xà nu là một loại cây gỗ quý và dặc biệt có sức sống rất mãnh liệt. Nêu rõ luận điểm: Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã chọn cây xà nu: loài cây quen thuộc của núi rừng Tây Nguyên làm một biểu tượng nghệ thuật để khắc họa phẩm chất của người dân Xô Man.

h) Cần nêu lại luận điểm:

– “Văn học dân gian là dòng văn học ra đời từ trước khi có văn học viết, có giá trị nội dung và nghệ thuật to lớn…”. Bổ sung một hệ thống luận cứ phù hợp, đầy đủ và toàn diện để dẫn đến kết luận: “Chính vì thế, văn học dân gian là nền tảng của văn học viết”.

Cũng có thể nêu lại luận điểm: “Văn học dân gian luôn hướng con người tới cái “chân, thiện, mĩ”.

Hoặc: “Văn học dân gian chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần tốt đẹp, là nguồn mạch nuôi dưỡng tâm hồn con người”. Bổ sung các luận cứ nhằm triển khai luận điểm này thành một đoạn văn: thế giới cái thiện, mơ ước về hạnh phúc trong truyện cổ, lời tâm tình ngọt ngào, thắm thiết trong ca dao, bài học đạo lí nghĩa nhân trong ca dao, tục ngữ. Bỏ bớt các luận điếm chồng chéo: Văn học dân gian còn là kho tàng về nghệ thuật:

Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.

Với phép so sánh đặc sắc, câu ca dao là lời hát về thân phận éo le, khổ cực của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Với những giá trị ấy, văn học dân gian là bộ phận của văn học Việt Nam, là nền tảng của văn học viết.

Nguồn: Tổng Hợp

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *